NĂM GIÁP NGỌ
Giáp Ngọ (甲 午) là kết hợp thứ 31 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Giáp(Mộc dương) và địa chi Ngọ (ngựa). Trong chu kỳ của lịch Trung Hoa, nó xuất hiện trước Ất Mùi và sau Quý Tỵ.
Giữa năm 1700 và 2200, những năm sau đây là
năm Giáp Ngọ (lưu ý ngày đưa ra được tính theo lịch Việt Nam, chưa được sử dụng
trước năm 1967): 1714, 1774, 1934, 1894, 1954 (3-2-1954, 24-1-1955) 2014
(31-1-2014, 19-2-2015) 2074 (27-1-2074, 15-2-2075), 2134, 2194,…
Có 10 Can, gọi là Thập Thiên Can, gồm: Giáp,
Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Và có 12 Chi, gọi là Thập Nhị
Địa Chi, gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Đủ
một chu kỳ theo Can và Chi là 60 năm. Ví dụ: Năm 2014 là năm Giáp Ngọ, năm 2074
cũng sẽ là năm Giáp Ngọ.
Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi được đặt
ra là để tính thời gian và làm lịch. Cách tính khoảng thời gian thì có: Hội,
Chuyển, Nguơn, Kỷ, Năm, Tháng, Ngày, Giờ. Người xưa căn cứ chu kỳ Mặt Trăng,
nên gọi là Âm lịch (khác với Dương lịch, tính theo chu kỳ Mặt Trời) để làm lịch,
đồng thời xác định các mùa và tiết trong năm. Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa
Chi được đặt ra từ thời Hiên Viên Huỳnh Đế. Vua Huỳnh Đế sai ông Đại Nhiễu tạo
ra Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi để tính thời gian mà làm lịch cho dân
dùng.
Trước thời vua Huỳnh Đế là vua Phục Hy tìm ra
được Hà đồ, do quan sát các chấm đen trắng trên lưng con Long Mã xuất hiện ở
sông Hoàng Hà mà lập thành. Nhờ đó, vua Phục Hy chế ra Tiên Thiên Bát Quái. Trên
Hà đồ có tất cả 10 con số chia ra ứng theo Ngũ Hành. Do đó, người xưa dùng con
số 10 để chế ra Thập Thiên Can.
Khoa Thiên văn thời xưa đã có thể nhận thấy
Mặt Trời quay xung quanh Trái Đất giáp một chu kỳ gọi là 1 năm, Mặt Trăng quay
chung quanh Trái Đất giáp một chu kỳ là một tháng. Một năm có 12 tháng, tức là
một năm có 12 chu kỳ Mặt Trăng. Do đó, người xưa dùng số 12 chế ra Thập Nhị Địa
Chi để gọi tên của 12 tháng.
Khi đã có Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi
rồi thì người xưa cho phối hợp lại để tính năm, tháng, ngày, giờ. Sự phối hợp
khởi đầu là: Giáp Tý (tức là lấy 2 chữ đầu của Can và Chi ghép lại). Cứ ghép
tiếp sẽ có: Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão,…
Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần
thánh. Tuy nhiên, người Trung Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với
những tư tưởng mang tính triết học, mà Ngũ Hành là một minh chứng.
Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5
yếu tố không phải là chỉ của riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng
thế giới được sinh ra từ Vực thẳm Khaox (Chaos – Hỗn mang, hồng hoang) thể hiện
thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối Tăm Vĩnh Cửu Erèbe, Đêm Tối Nix, Địa Ngục Tartar,
và Tình Yêu Erox. Triêt gia Aristoles cho rằng 5 nguyên tố cơ bản của thế giới
là Nước, Lửa, Đất, Không khí, Ánh sáng,... Nhưng có lẽ không bộ 5 yếu tố nào
lại có tính triết lý cao như Ngũ Hành của Trung Hoa: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.
Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của con người, cũng tựa như cơ số
10 trong hệ đếm.
Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 trước
công nguyên), được củng cố phát triển trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là
cấu tạo cụ thể, với các tính chất cụ thể:
KIM : kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh,
bền chắc.
MỘC : gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai,
chịu đựng.
THỦY : nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm.
HỎA : lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo.
THỔ : đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh
sôi.
Nhưng rồi chúng được triết lý hóa, trở thành
Ngũ Hành – 5 nguyên lý cơ bản của vật chất, gắn kết với mọi trạng thái triết lý
từ vật chất đến tinh thần.
Hành Kim : màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi,
Phổi (Phế).
Hành Mộc : màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt,
Gan (Can).
Hành Thủy : màu Đen phương Bắc mùa đông Tai,
Thận.
Hành Hỏa : màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi, Tim
(Tâm).
Hành Thổ : màu Vàng phương Trung ương (không)
Miệng, Tỳ.
Việc gắn phương hướng với các mùa và với Ngũ
hành liên quan nhiều đến Thiên Văn. Người Trung hoa nhận thấy vào mùa Xuân thì
đuôi của chòm sao Bắc Đẩu chỉ về phía Đông, mùa Thu chỉ về phía Tây, nên tương
ứng mùa và phương. Như vậy chòm Bắc Đẩu thất tinh không phải chỉ là xác định
phía Bắc, mà còn là sao chỉ phương và mùa trong văn hóa Trung Hoa.
Hai quy luật tương tác biến dịch quan trọng
là tương sinh và tương khắc trở thành nền tư duy cho nhiều học thuyết (tuy
nhiên sẽ không xét kỹ ở đây, mà chỉ đi vào khía cạnh Thiên văn).
Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa - Hỏa sinh Thổ - Thổ
sinh Kim - Kim sinh Thủy - Thủy sinh Mộc.
Tương Khắc: Mộc khắc Thổ - Thổ khắc Thủy -
Thủy khắc Hỏa - Hỏa khắc Kim - Kim khắc Mộc.
Về sau tư tưởng Ngũ hành được gán cho rất
nhiều ý nghĩa, đi rất xa với tư tưởng gốc ban đầu. Cứ bộ 5 nào cũng thành Ngũ
hành hết, chẳng hạn lý thuyết: Cái sinh Ta, cái Khắc Ta, cái Ta sinh, cái Ta
khắc,…
Dựa trên tư tưởng Ngũ hành, năm sắc độ sáng
của các ngôi sao được phân chia (từ nguội đến nóng) là Đen – Đỏ - Vàng – Trắng
– Xanh. Trên thực tế, các ngôi sao có màu sắc gần đúng như cách phân chia này:
Nhiệt độ bề mặt dưới 2.000 độ C, sao màu đỏ
tối, chỉ phát bức xạ, gần như không nhìn thấy.
Nhiệt độ bề mặt 2.000-5.000 độ C, sao màu đỏ.
Nhiệt độ bề mặt 6.000-9.000 độ C, sao màu
vàng.
Nhiệt độ bề mặt 10.000-15.000 độ C, sao màu
trắng.
Nhiệt độ cao hơn nữa, hơn 20.000 độ C, màu
xanh.
Mặt trời của chúng ta là ngôi sao trung bình
màu vàng, nhiệt độ bề mặt khoảng 6500 độ, ứng với màu của hành Thổ. Trong Thiên
Quan thư, Tư Mã Thiên viết: “Muốn xem sắc trắng của tinh tú, hãy nhìn sao Thiên
Lang; muốn xem sắc đỏ, hãy nhìn sao Tâm, muốn xem sắc vàng, hãy nhìn sao Sâm
Tả, xem sắc xanh hãy nhìn sao Sâm Hữu, sắc đen thì nhìn sao Khuê.”
Cách phân chia đó khá đúng về màu
sắc: Sao Thiên Lang (sao Sirius – chòm Canis Major), là ngôi sao đôi sáng
chói nhất bầu trời Sao Tâm hay sao Thương (sao Antares – chòm Scorpius) có
quang phổ M0, màu đỏ rất rõ Sao bên phải sao sao Sâm (sao Rigel – chòm
Orion), ngôi sao sáng thứ 7 bầu trời, quang phổ B2 màu xanh. Sao Khuê (sao D – chòm
Andromeda) quang phổ M0 đỏ tối, trong con mắt Tư Mã Thiên là đen.
Sao Antares chòm Scorpius (sao Tâm Tú trong
chòm Tâm, khu vực Thần Nông), ngôi sao có ánh sáng đỏ rực không kém gì Sao Hỏa.
Sao Sirius trong Canis Major (sao Thiên Lang), ngôi sao có ánh trắng xanh, sáng
nhất bầu trời. Tư Mã Thiên lấy ánh sáng này đại diện cho sắc trắng. Chòm Orion
(tương ứng với Chủy và Sâm). Sao Betelgeuse phía trên bên trái, sau 2000 năm đã
chuyển từ sắc vàng sang đỏ. Sao Rigel phía dưới bên phải tượng trưng cho sắc
xanh.
Chỉ có Sao bên trái sao Sâm (sao Betelgeuse –
chòm Orion), ngôi sao sáng thứ 10 trên bầu trời, và là một trong thiên thể lớn
nhất bầu trời quan sát thấy, mà dưới thời Tư Mã Thiên là màu vàng, thì ngày nay
là ngôi sao rất lớn màu đỏ. Nghĩa là sau 2000 năm, ngôi sao đó đã nguội đi. Đó
là hiện tượng nguội sao duy nhất mà loài người quan sát được trong lịch sử.
Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên
cho các hành tinh mà họ quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy
tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh. Chính các hành tinh này và chu kì
chuyển động của chúng là cơ sở tạo nên hệ đếm Can Chi.
Can Chi chủ yếu dùng trong Lịch pháp, nhưng
cũng có cơ sở từ quan sát Thiên Văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao, ngày Hạ chí mặt
trời không thẳng đứng trên đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên
quan đến mặt trời hơn, nên Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc
dùng Can Chi tính ngày tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (thế kỷ 12 trước
công nguyên), việc gán tên con vật vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực
hiện.
Khi quan sát quĩ đạo các hành tinh, họ lấy
Bắc thiên cực làm gốc, rồi dựa theo 8 cung Bát quái để xác định tọa độ. Sau rất
nhiều năm quan sát và ghi chép lại, họ đưa ra các nhận xét của mình. Một số
nhận xét về chu kỳ (trở về vị trí cũ trên bầu trời) của các Hành tinh như sau:
Sao Thủy khoảng ¼ năm, sao Kim khoảng 0,6 năm, sao Hỏa khoảng 2 năm, sao Mộc
khoảng 12 năm, sao Thổ khoảng 30 năm.
Các nhà làm lịch đã dùng 3 hành tinh là Hỏa,
Mộc, Thổ làm chuẩn, bội số chung nhỏ nhất là 60, hay phải sau khoảng 60 năm,
các hành tinh trên mới có được vị trí (tương đối với nhau) gần giống như cũ.
Sao Hỏa sau 1 năm lại chuyển sang vị trí đối diện, rồi 1 năm sau lại về vị trí
cũ, trở thành sao làm chuẩn cho chu kỳ 1 năm Âm, 1 năm Dương. Sao Mộc có chu kỳ
12 năm được lấy làm chuẩn để tính năm, nên gọi là Tuế Tinh. Sao Thổ lâu nhất,
gọi là Thiên Can.
Sau khi kết hợp cả thuyết Ngũ hành và Âm
Dương, thì con số 5 được chia 2, thành 10 Can, ứng với Ngũ hành, mỗi hành 1 Âm
1 Dương, còn 12 năm của Tuế Tinh thành Chi. Can Chi ra đời còn muộn hơn Ngũ
hành, và càng muộn hơn thuyết Âm Dương, mãi khoảng đầu công nguyên mới có.
Can (cán – thân cây) gồm: Giáp – Ất – Bính –
Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý.
Chi (cành cây) gồm: Tý – Sửu – Dần – Mão –
Thìn – Tỵ – Ngọ - Mùi – Thân – Dậu – Tuất – Hợi.
Trong đó: Giáp + Ất là là hành Mộc, Bính +
Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là Thủy, cứ 1 âm 1
dương đổi nhau.
Các từ chỉ Can và Chi đều là quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây cối:
1. Giáp : nẩy mầm.
2. Ất : nhú lên mặt đất.
3. Bính : đón ánh mặt trời.
4. Đinh : trưởng thành khỏe mạnh.
5. Mậu : rậm rạp.
6. Kỉ : dấu hiệu hoa trái.
7. Canh : thay đổi.
8. Tân : hoa quả mới.
9. Nhâm : thai nghén cho mùa sau.
10. Quý : mầm đang chuyển hóa.
12 Chi (Con Giáp), theo vòng từ Tý đến
Hợi:
1. Tý : mầm hút nước.
2. Sửu : nẩy mầm trong đất.
3. Dần : đội đất lên.
4. Mão : rậm tốt.
5. Thìn : tăng trưởng.
6. Tỵ : phát triển.
7. Ngọ : sung mãn hoàn toàn.
8. Mùi : có quả chín.
9. Thân : thân thể bắt đầu suy.
10. Dậu : co lại.
11.Tuất : khô úa héo tàn.
12. Hợi : chết đi.
Như vậy nguyên thủy các chi không phải là các
con vật như mọi người vẫn nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán
các chi với các con vật. Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ
ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con
vật là những loài đã đến từ biệt khi Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là
các con giáp, lần lượt là:
Tý – Thử – Chuột, Sửu – Ngưu – Trâu, Dần – Hổ
– Cọp, Mão – Thố – Thỏ (Việt Nam gọi là Mèo), Thìn – Long – Rồng, Tỵ – Xà –
Rắn, Ngọ – Mã – Ngựa, Mùi – Dương – Dê, Thân – Hầu – Khỉ, Dậu – Kê – Gà, Tuất –
Khuyển – Chó, Hợi – Trư – Lợn.
Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp
ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại
sao lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời
điểm loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của
các con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.
Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên
Can Chi còn gọi là Hoa Giáp. Từ điểm bắt đầu là Giáp Tý cho đến hết vòng là Quý
Hợi, chỉ có số chẵn đi với chẵn, lẻ đi với lẻ, nên không thể có Giáp Sửu hay
Quý Tuất.
Trong thiên văn, khu vực của 12 cung còn ứng
với 12 nước thời Xuân thu chiến quốc: Tề à Tý, Ngô à Sửu, Việt à Dần, Yên à Mão, Tống à Thìn, Trịnh à Tỵ, Sở à Ngọ, Chu à Mùi, Tần à Thân, Vệ à Dậu, Triệu à Tuất, Tấn à Hợi.
12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính
Lịch pháp (thực chất là Âm-dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12
tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1 tháng 2 ngày.
Cùng với Ngũ hành, Can chi hay Hoa Giáp đã
tạo thành một tư tưởng khép kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60.
Các thước đo thời gian đều được gắn với Can chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một
năm 12 tháng; 12 năm là một chu kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp,”
3.600 năm là một chu kỳ lớn của Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng can chi, nên
phải thêm triều đại cai trị tương ứng mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu
trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm
trong cung nào.
Chi Ngọ đứng ở vị trí giữa, trong lịch pháp
ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn hàm nghĩa là Sung mãn, trọn vẹn. Tại sao
lại là 12 con vật này với 12 cung giờ trong ngày, có thuyết gắn với thời điểm
loài vật hoạt động mạnh nhất. Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các
con vật, cứ một chắn đi kèm với một lẻ.
…VÀ CHUYỆN NGỰA
Có nhiều loại ngựa, dù theo nghĩa đen hoặc
nghĩa bóng: Ngựa trắng (Bạch mã), Ngựa đen (Ngựa ô), Ngựa vằn, Ngựa hoang, Ngựa
sắt, Ngựa giấy, Ngựa chứng, Ngựa bất kham,…
1. NGỰA SẮT. Thánh Gióng, tức là Phù
Đổng Thiên Vương hoặc Xung Thiên Thần Vương , là một trong bốn vị thánh
bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, gọi là Tứ Bất Tử. Thánh Gióng có
công dẹp giặc Ân, đem lại thái bình cho đất nước.
Truyền thuyết kể: Ông sinh ra tại xã Phù
Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, thời Hùng Vương thứ 6. Ông là “người trời” đầu
thai làm đứa trẻ đã lên ba mà không biết nói cười, đi đứng. Nhưng khi có giặc
tràn xuống thì “người trời” cất tiếng gọi mẹ nhờ ra gọi sứ giả của nhà vua, rồi
bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng cưỡi NGỰA SẮT đi đánh giặc.
Sau khi đánh tan giặc Ân, ông bay thẳng về trời. Nơi đó chính là núi Sóc – thuộc
huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Sử sách ghi: “... Diệt quốc cừu, điện quốc cơ, trùng tiêu quốc xí, đương ư sóc phong
liệt tướng, thành sở vị: giang nam nhất nhân, giang bắc nhất nhân.” Dịch
nghĩa: “... Diệt giặc nước, xây móng nền,
dựng cờ tổ quốc, cùng trang liệt tiếng Sóc Sơn, thành truyền thuyết: phía Nam
sông Tướng giỏi, phía Bắc sông Người tài.” (Tức là phía Nam sông Cầu có
tướng giỏi là Thánh Gióng, phía Bắc sông Cầu có người tài là Hùng Linh Công.)
Theo truyện kể của học giả Nguyễn Đổng Chi, vào
thời Hùng Vương có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình.
Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy
luống cà. Bà kinh ngạc kêu lên: “Ôi, bàn
chân ai mà to thế này!”
Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân
ướm thử vào dấu chân lạ. Từ đó bà có mang. Đủ ngày tháng, bà sinh được một đứa
con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm
ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.
Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc
Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương, hình dung
cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến
đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi. Vua Hùng
lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm bậc tướng tài để
giúp vua cứu nước.
Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe
tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền
bảo đùa con: “Con ơi! Con của mẹ chậm đi
chậm nói làm vậy, thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!” Không
ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng: “Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!”
Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ,
vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ tới, ai nấy cho là một sự lạ. Sau
cùng, một người nói: “Ta cứ đi mời sứ giả
đến xem thử nó muốn cái gì.”
Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhà nhìn thấy
chú bé Gióng thì hỏi: “Mày là đứa trẻ lên
ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì?” Gióng trả lời rất chững
chạc: “Về bảo với vua rèn cho ta một con
ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc
dữ cho!”
Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là
thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương
mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và
nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn xong nặng không thể tưởng tượng nổi.
Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng
ngàn quân sĩ tìm mọi cách chở đến cho chú bé Gióng.
Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến
làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con: “Con
ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài
bãi, biết làm thế nào bây giờ?” Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói to: “Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ
phải cho con ăn thật nhiều mới được!”
Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên
được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại
lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như
thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu
gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu rượu, hoa quả, bánh trái đến
đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng ăn hết bấy nhiêu mà vẫn đòi ăn
không nghỉ. Sau đó, Gióng lại bảo: “Mẹ
kiếm vải cho con mặc.”
Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may áo
quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần vừa
may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm.
Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc
quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra
khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng,
hét lên một tiếng như tiếng sấm: “Ta là tướng nhà Trời!.”
Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay
cầm gươm múa quanh mấy vòng, từ biệt mẹ và dân làng, rồi nhảy lên lưng NGỰA SẮT.
Ngựa sắt chồm lên, phun thẳng ra trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân,
ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào, rung chuyển cả trời đất.
Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả
mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc
xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại,
lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri.
Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn cố gào thét hô
quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng.
Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường
quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng
mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn
binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ
còn việc xông ra trói nghiến chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong
nạn nước. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng
bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời...
Sau đó, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng
sai lập đền thờ ở làng quê, phong làm Phù Đổng Thiên Vương, tường gọi là Thánh
Gióng.
Ngày nay chúng ta còn thấy dấu vết những dãy
ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo
đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu
cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng nhổ quật vào
giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày
nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre ngà (đằng ngà).
2. NGỰA TRẮNG. Đó là Bạch Long Mã của Đường
Tam Tạng (Trần Huyền Trang). Bạch Long Mã vốn là “rồng trắng hóa thành ngựa.”
Đường Tam Tạng là vị sư chân tu phụng mệnh Quan Âm Bồ Tát và Đường Thái Tông đi
từ Ấn Độ đến Thiên Trúc thỉnh bộ Đại Thừa Phật Pháp Tam Tạng chân kinh về Đại
Đường để phổ độ chúng sinh.
Truyện này của tác giả Ngô Thừa Ân, đã được
dựng thành bộ phim nhiều tập “Tây Du Ký.” Cùng đi với Tam Tạng có Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tịnh và Bạch Long Mã (một hoàng tử của Long Vương).
3. NGỰA XÍCH THỐ. Đó là một con ngựa nổi
tiếng trong Tam Quốc Chí. Ngựa Xích Thố ban đầu của Đổng Trác, sau đó Đổng Trác
tặng lại cho Lã Bố.
Con ngựa này dài một trượng, cao tám thước,
màu đỏ rực như lửa, tuyệt không có một sợi lông tạp, ngày đi ngàn dặm, trèo non
vượt suối dễ dàng.
Lúc Lã Bố chết, nó được Tào Tháo cho người
chăm sóc, sau trao lại cho Quan Công (Quan Vũ). Quan Vũ cưỡi ngựa Xích Thố qua
năm cửa ải chém sáu tướng. Khi Quan Công mất thì nó cũng mất theo ông, người
đời có một bài thơ để lại như sau:
Trong truyện Tam Quốc Chí cũng có 2 câu đối
nhắc tới Ngựa Xích Thố: “Xích bỉnh diện xích tâm, kỵ Xích Thố truy phong, trì
khu thời vô vong Xích Đế Thanh đăng quan thanh sử, trượng thanh long yển
nguyệt, ẩn vi sứ bất quý thanh thiên.” Bản dịch của Phan Kế Bính: “Bộ mặt đỏ giữ tấm lòng đỏ, cưỡi ngựa Xích
Thố truy phong, lúc ruổi rong không quên nhớ Vua Đỏ, Ngọn đèn xanh xem bộ sử
xanh, cầm Thanh long đao yển nguyệt, nơi kín đáo chẳng thẹn với trời xanh.”
Ngựa Xích Thố được xem như một trong những
Thần Mã của lịch sử Trung Quốc, những thần mã quý khác như Ngựa Đích Lư (Đích Lô)
của Lưu Bị, Ngựa Tuyệt Ảnh của Chu Mục Vương, Ngựa Bạch Long của Triệu Vân,…
đều có nguồn gốc khác nhau.
Khi Tào Tháo tặng Ngựa Xích Thố cho Quan Vũ,
Quan Vũ nhận ngựa xong liền phục lạy tạ ơn. Tào Tháo đã phải ngạc nhiên nói: “Ta đã bao phen trao tặng nào là mỹ nữ, nào
là vàng bạc, nào là gấm vóc, sao chẳng thấy Vân Trường vui, nay cho con ngựa
này mà Vân Trường lại tạ ơn hậu như vậy?”
Nếu Ngựa Xích Thố nổi danh có nghĩa với chủ,
thì cũng trong Tam Quốc Chí, Ngựa Đích Lư lại nổi danh uy dũng không thể chê
được.
4. NGỰA ĐÍCH LƯ. Khi Lưu Huyền Đức thất thế,
đến Kinh Châu nương nhờ anh họ là Lưu Biểu, có dắt theo ngựa Đích Lư. Thấy Lưu
Biểu có ý thích ngựa, Huyền Đức đem tặng ngay. Lưu Biểu cảm kích nhận ngựa,
nhưng hôm sau lại đem trả cho Huyền Đức, vì nghe một người giỏi xem tướng ngựa
bảo: “Con Đích Lư dưới mắt có chỗ trũng,
cạnh trán lại có điểm trắng, vậy là con vật hại chủ.”
Hôm sau, Huyền Đức từ biệt Lưu Biểu, vừa ra
khỏi thành thì gặp và nghe Y Tịch nói: “Nghe
nói Lưu Biểu trả lại ông ngựa này vì cưỡi thì hại chủ. Vậy ông còn cưỡi làm gì?”
Huyền Đức đáp: “Người ta sống chết có mệnh,
con ngựa hại thế nào được!” Một hôm, Sái Mạo (em vợ sau của Lưu Biểu) rắp
tâm hãm hại Huyền Đức vì Huyền Đức đã dám can ngăn Lưu Biểu đừng bỏ trưởng lập
thứ. Người con thứ của Lưu Biểu lại là cháu gọi Sái Mạo bằng cậu.
Huyền Đức hay tin liền phóng lên Ngựa Đích Lư
bỏ trốn. Khi đi đến Suối Đàn Khê, rộng độ vài trượng, nước chảy xiết, Huyền Đức
gò ngựa trở lại. Nhưng thấy quân của Sái Mạo đã đến, không còn cách nào hơn,
Huyền Đức lại quất ngựa xuống suối. Đi được vài bước, ngựa ngã quỵ hai chân
trước, làm ướt hết cả áo bào. Huyền Đức vung roi hô lớn: “Đích Lư! Đích Lư! Nay mi hại ta rồi!” Nói vừa dứt lời, Huyền Đức
bỗng thấy Đích Lư rướn mình nhảy vọt cao ba trượng sang tới bờ bên kia. Trên cả
tuyệt vời!
Sái Mạo nhìn thấy cảnh đó, quay lui bảo với
tả hữu: “Người ấy có Thần nào giúp vậy?
Thật là một con ngựa uy dũng!” Chuyện đời có nhiều điều bất ngờ mà đâu ai
biết được!
VĨ NGÔN
NGỰA cũng có nhiều “phong cách” khiến chúng
ta phải học hỏi để rút kinh nghiệm. Mong sao trong suốt cuộc đời, nhất là trong
Giáp Ngọ này, mỗi chúng ta đều là Ngựa Quý, Ngựa Hiếm, Ngựa Tốt, Ngựa Trung
Thành, Ngựa Uy Dũng,… chứ không là Ngựa Hoang, Ngựa Chứng, Ngựa Giấy,…
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment