Tháng Mười Một là tháng “Nhớ Cội Nguồn,” tháng biết ơn tiền nhân. Cây có cội, nước có nguồn, chim có tổ, người có tông. Kinh Thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ.” (Hc 3:1-16) Đó
là giới răn thứ tư trong Mười Điều Răn mà Đức Chúa đã ban truyền qua ông Môsê
trên núi Sinai. (Xh 20:3-17)
Giọt nước nào cũng phải có nguồn, có nơi phát
xuất. Giọt mưa rơi xuống từ trời. Dù chỉ là giọt nước máy thì cũng phải chảy ra
từ chiếc vòi, thậm chí từ chiếc bình. Con người cũng vậy, ai cũng phải có tổ
tiên, có cha có mẹ. Đừng “vô tư” như NS Trịnh Công Sơn mà thản nhiên nói: “Tôi vui chơi giữa đời (ối a), biết đâu
nguồn cội.” (Biết Đâu Nguồn Cội)
Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Uống nước nhớ nguồn.” Những từ ngữ rất
giản dị, mộc mạc, nhưng lại chuyển tải cả một đạo lý làm con đối với song thân
phụ mẫu, những người đã sinh dưỡng chúng ta. Có nhiều ca khúc viết về mẹ, như
bài “Lòng Mẹ” của cố NS Y Vân, nhưng lại hiếm bài viết về cha – có lẽ cha thâm
trầm nên người ta khó “cảm” hơn.
Tháng Mười Một mệnh danh là Tháng Cầu Hồn vì
Giáo hội dành riêng để chúng ta cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, trong đó
có những người thân của chúng ta: Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, kể cả anh chị em
hoặc cháu chắt của chúng ta. Tất nhiên trong đó cũng có cả những bạn bè, người
quen,... Nói chung, chúng ta nhớ tới mọi người đã “ra đi” trước chúng ta, họ
“đi” trước là họ đã “lớn” hơn chúng ta rồi, vì họ vào cõi vĩnh hằng trước chúng
ta, dù họ có thể tuổi đời của họ còn ít hơn tuổi đời của chúng ta.
Khi nói đến việc nhớ ơn, người ta thường nghĩ
ngay tới những người gần gũi nhất và trực tiếp nhất đối với chúng ta: Cha Mẹ. Nói
cho văn hoa và trang trọng, đó là Song Thân Phụ Mẫu. Người ta có thể chọn nhiều
thứ nhưng không thể chọn cha mẹ (và tiền nhân, ông bà). Thiên Chúa đã đặt chúng
ta là con cháu của các ngài. Chúng ta có trách nhiệm phải “thờ cúng tổ tiên,” Kinh Thánh cho biết: “Ai thờ cha thì bù
đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì
con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường
thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.” (Hc 3:3-6)
Có một ca khúc thể hiện cả công cha và nghĩa
mẹ là bài “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố NS Dương Thiệu Tước. [*] Ca khúc này
được lồng trong tiết tấu chậm với nhịp 4/4, âm thể Rê trưởng (D), giai điệu
mượt mà và đầy cảm xúc. Tiết tấu chậm khiến người ta lắng lòng xuống để trầm
tư, nhưng không buồn mà vẫn “sáng” trong âm thể Rê trưởng.
Ca từ thật đẹp và đầy tính giáo dục được rút
ra từ ca dao tục ngữ phổ biến: “Uống nước
nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Em ơi, hãy nhớ năm xưa, những ngày còn thơ, công
ai nuôi dưỡng”. Ai cũng được cha mẹ sinh ra và nhờ công lao dưỡng dục vô kể
của cha mẹ. Công lao đó được đúc kết trong 9 chữ, gọi là 9 đức cù lao: Sinh
(đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (ấp ủ, vỗ về), Súc (bú mớm, cho ăn), Trưởng (nuôi cho
lớn khôn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (săn sóc, theo dõi), Phúc (bao
bọc, chở che).
Câu tiếp theo là lời khuyên răn và nhắc nhở
bổn phận làm con: “Công đức sinh thành,
người hỡi đừng quên. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra.” Những lời chân chất, không có gì bóng gió, thế nên không hề khó
hiểu.
NS Dương Thiệu Tước phân tích thêm: “Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công
người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu, anh nên người tài ba? Hãy nhớ
công sinh thành, vì ai mà có ta?” Cách hỏi nhẹ nhàng mà như “xoáy” vào tận
đáy lòng. Thật vậy, chúng ta có thành nhân và thành công thì cũng đều nhờ công
lao của cha mẹ.
Rất nhiều sinh viên đi học xa nhà, được no
cơm ấm áo, nhưng cha mẹ ở nhà phải hy sinh trăm bề, có khi cả chỗ nằm ngủ cũng
không được tươm tất, mưa tạt gió thổi, thế mà khi nên danh phận, có một số
người lại phủi tay, cho rằng mình giỏi giang và văn minh, rồi chê cha mẹ “cổ
hủ,” thậm chí họ còn không muốn nhận cha mẹ mình trước mặt người khác. Thất
đáng xấu hổ. Buồn thay!
Câu cuối vẫn là lời nhắc nhở, rạch ròi hơn: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu.
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.” Cánh-diều-con
bay lên là nhờ dây-cha-mẹ, diều-con càng cao vút thì dây-cha-mẹ càng thêm sức
nặng của gió. Đừng bao giờ lãng quên, người ơi!
Trong “Kinh Thi” (tập sách ghi nhận có
những câu ca dao cổ của người Trung Quốc) có câu với ý nghĩa tương tự, mô tả cụ thể ơn đức của cha mẹ, đồng thời nêu lên niềm khát khao báo đáp của người con: “Phụ
hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, xúc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã,
phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực.” (Cha
sinh ra ta, mẹ nâng đỡ ta, vuốt ve ta, cho ta bú, nuôi ta khôn lớn, dạy bảo ta
nên người, chăm lo ta, ôm ấp ta, ra vào để bảo vệ ta. Muốn đáp trả ơn huệ ấy,
chỉ biết như bầu trời lồng lộng đến vô cùng.)
Công ơn cha mẹ thật lớn lao, cao vời khôn ví,
ca dao Việt Nam chỉ mang tính tương đối, vì con người chỉ có thể ví như thế mà
thôi:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Nhưng vấn đề quan trọng không phải ví von cho
vui, nói bằng đầu môi chót lưỡi, mà vấn đề phải là:
Một lòng thờ kính mẹ cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con
Thánh Phaolô nói về các đức đối nhân, và cũng
là điều mà con cái phải đối xử với cha mẹ trước tiên: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. (1 Cr 13:1-13)
Thánh sử Luca cho biết: Sau ba ngày lạc mất
Con Trẻ, Cô Maria và Chú Giuse mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa
các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về
trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt,
và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao
con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực
lòng tìm con!” (Lc 2:48) Cậu Giêsu đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của
Cha con sao?” (Lc 2:49)
Chúa Giêsu thông minh, siêu phàm, nhưng Ngài
vẫn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài.” (Lc
2:51) Ngài có hiếu với cha mẹ, vâng lời cha mẹ, chúng ta không thể không noi
gương Ngài. Nếu không thì “không ổn” đâu! Vì ông Môsê đã dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền
rủa cha mẹ thì phải bị xử tử!” (Mc 7:10) Kinh Thánh đã có những lời rất
rạch ròi!
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát tổ tiên của chúng con, đặc biệt
là ông bà, cha mẹ của chúng con, những người đã vất vả vâng lời Chúa mà sinh
dưỡng chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Công Nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM
THIÊN THU✽ Chuyến Lữ Hành – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/11/chuyen-lu-hanh.html
✽ Ví Dụ – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/10/vi-du.html
✽ Ví Dụ – https://tramthienthu.blogspot.com/2015/10/vi-du.html
[*] NS Dương Thiệu Tước (1915–1995) là một
nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong
của nền tân nhạc Việt Nam. Ông sinh ngày 15-5-1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn
Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông xuất thân từ gia đình
Nho học truyền thống, là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam
Định.
Thập niên 1930, ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài
tử Myosotis (Hoa Lưu Ly) gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh,... Ông có
sáng kiến “soạn nhạc Tây theo điệu ta,” các nhạc phẩm hồi đầu của ông thường
được viết bằng tiếng Pháp. Dù học nhạc Tây nhưng nhạc của ông vẫn đượm hồn dân
tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: “Theo
tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này,
người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như
hát được các làn điệu cổ truyền.” Ông vào Nam sống từ 1954. Tại Saigon, ông
làm chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Saigon, đồng thời được mời dạy lục
huyền cầm (Tây ban cầm, Guitar) tại trường Quốc gia Âm nhạc (ngày nay là Nhạc Viện
trên đường Nguyễn Du, quận 1, Saigon).
Vợ cả và cũng là chính thất của ông là bà
Lương Thị Thuần, hiện con cái sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là Minh
Trang, một ca sĩ nổi tiếng hồi thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao.
Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại Bình Thạnh
(Saigon) và được bà chăm lo cho tuổi về chiều. Ông mất ngày 1-8-1995 tại Saigon.
Các ca khúc tiêu biểu của ông: Bóng Chiều Xưa, Cánh Bằng Lướt Gió, Chiều (thơ
Hồ Dzếnh), Dưới Nắng Hồng, Đêm Ngắn Tình Dài, Đêm Tàn Bến Ngự, Hờn Sóng Gió,
Khúc Nhạc Dưới Trăng, Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi Quê Hương, Sóng Lòng, Tiếng Xưa,
Uống Nước Nhớ Nguồn (viết chung với NS Hùng Lân),…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment