Cuốn “Elementarz Etyczny” (Nhập Môn Đạo Đức) của tác giả Karol Wojtyła (về sau là ĐGH Gioan Phaolô II) có 20 bài viết mà ngài viết cho báo Tygodnik Powszechny ở Kraków trong thời gian 1957-1958. Trong đó ngài đưa đạo đức Công giáo vào các vấn đề đạo đức đang được tranh luận vào thời đó. Chúng không chỉ là những suy ngẫm hàn lâm, mà còn giải thích thế giới quan Công giáo trái ngược với các tiền đề ý thức hệ về con người mà chủ nghĩa Marx đang cố gắng áp đặt lên Ba Lan. Đó không chỉ là các chính sách, đó là một thế giới quan mà một “công dân đúng nghĩa” hiển nhiên phải hiểu biết.
Những gì tác giả Wojtyła đã làm trong Elementarz
Etyczny vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay vì chúng ta một lần nữa phải đối mặt
với các phong trào xã hội không chỉ thúc đẩy các chính sách mà còn thúc đẩy thế
giới quan toàn diện, có ý thức hệ cho công dân “thích hợp” trong một xã hội
“dân chủ.” Nó không chỉ phù hợp như một ví dụ về cách thức, về mục vụ, thách
thức bản sắc văn hóa của giới tinh hoa mà trong nhiều trường hợp, nó đặt ra
những vấn đề quan trọng để giải quyết các tranh cãi ngày nay từ các tiền đề
Công giáo.
Một trong những lĩnh vực như vậy là “xung đột
giai cấp,” tác giả Wojtyła dành hẳn 2 bài để nói. “Xung đột giai cấp” là linh
hồn của đạo đức Marxist, động cơ thúc đẩy “vòng cung lịch sử” của nó hướng tới
sự tất yếu tự tuyên bố của nó. Những người Cộng sản Ba Lan điều hành một quốc
gia vệ tinh vào những năm 1950 đã thúc đẩy một mô hình xung đột giai cấp cứng
rắn. Chúng ta có thấy – đặc biệt là trong các mùa bầu cử ngày nay ở Tây phương –
một phiên bản nhẹ nhàng hơn đang được thúc đẩy hay không? Một phiên bản suy ra
rằng những người giàu có bằng cách nào đó đã kiếm được tiền một cách phi đạo
đức, và do đó, nên bị buộc phải trả “phần công bằng” của họ cho “công ích.”
Tác giả Wojtyła lưu ý đúng rằng bạn có thể có
đạo đức xung đột hoặc đạo đức công lý. Trái ngược với mặc định của chủ nghĩa
Marx về xung đột, tác giả nhấn mạnh rằng người theo Kitô giáo phải xây dựng đạo
đức xã hội trên công lý, có thể bao gồm xung đột với các lợi ích đặc biệt cố
hữu và tự bảo vệ. Chính trị gia người Mỹ vận động cho “công bằng” và “bình đẳng”
có lẽ sẽ khăng khăng cho rằng đó là tất cả những gì họ muốn là “công lý.” Nhưng
vấn đề phức tạp hơn một chút.
Trước khi bắt đầu chia chiếc bánh, chúng ta
cần giải quyết một số quan điểm sơ bộ. Đầu tiên, chúng ta có thực sự coi người
kia là lân cận hay không? “Ai là người lân cận của tôi?” là một câu hỏi đạo đức
cơ bản mà câu trả lời không bao gồm các bài kiểm tra thu nhập. Người kia có
thực sự được coi là lân cận trong một doanh nghiệp xã hội chung hay thực sự là
kẻ trốn tránh trách nhiệm phải chịu trách nhiệm? Làm thế nào chúng ta có thể
xác minh quan điểm của các nhà lãnh đạo của chúng ta là trung thực tìm kiếm
công lý chứ không chỉ đơn thuần là khơi dậy lòng đố kỵ trong khi trả tiền cho
những thứ mà họ muốn trao tặng?
Thứ hai, quan điểm của tôi về “công bằng” có
được thúc đẩy bởi một trật tự đạo đức đúng đắn hay không? Như tác giả Wojtyła
đã lưu ý, của cải vật chất giảm đi do sự chia rẽ: “Chúng không thể được sở hữu và sử dụng đồng thời bởi một số lượng lớn con
người, hoặc bởi nhiều xã hội hay nhóm người.” Điều đó không đúng với của
cải tinh thần. Chúng tăng lên một cách nghịch lý khi được chia sẻ. Sáu người
không được ăn pizza nhiều bằng bốn người, nhưng sáu người chia sẻ tình yêu thì
giàu có hơn bốn người. Không làm giảm tầm quan trọng của vật chất – chúng ta là
những sinh vật vật lý và tinh thần – thì tinh thần có vị trí ưu việt.
Khi các chính trị gia yêu cầu “công bằng”
trong việc phân phối lợi ích vật chất hoặc trong chi phí chi trả cho chúng, câu
hỏi hợp lý là liệu họ có chủ yếu bị thúc đẩy bởi một thế giới quan duy vật hay
không: hàng hóa vật chất mới thực sự quan trọng, vì vậy tôi sẽ đấu tranh cho cử
tri/khu vực bầu cử để họ có được một phần lợi ích.
Chúng ta có bao giờ nghe các chính trị gia
nói về những của cải tinh thần chung trong cộng đồng hay không? Hay đó chỉ là
thứ thuốc phiện mị dân để đóng khung cho “cuộc chiến tất cả chống lại tất cả”
nơi mà những của cải tinh thần trở thành – giống như tôn giáo công dân – lời
kêu gọi tình cảm có nội dung mơ hồ chắc chắn không thể được coi là chuẩn mực
cho cá nhân?
“Bellium omnium contra omnes” (cuộc chiến tất
cả chống lại tất cả) của Hobbes mô tả tốt hơn tình trạng của chúng ta. Tác giả Wojtyła
phải đối mặt với hệ tư tưởng của các khối giai cấp chống đối lẫn nhau. Người
Công giáo Hoa Kỳ phải đối mặt với một cấu hình kỳ lạ hơn.
Một mặt, tầm nhìn của Hobbes (cũng như tầm
nhìn ít hiếu chiến hơn của Locke) không thấy xã hội tự nhiên: đó là những cá
nhân tự do chống lại những cá nhân khác. Làm sao bạn dám xâm phạm quyền tự quản
của tôi?
Mặt khác, sự trỗi dậy của DEI (Diversity,
Equity, Inclusion – Đa Dạng, Công Bằng, Hòa Nhập) và các hệ tư tưởng thức tỉnh
khác đã đưa vào một loại xung đột giai cấp/tập thể Marxist giữa “những người
được đặc quyền” và mọi người khác. Sự dao động giữa hai hệ nhân chủng học triết
học không nhất quán này giải thích nhiều sự căng thẳng đương đại.
Công lý Công giáo đòi hỏi sự công nhận về mặt
xã hội, “tất cả chúng ta đều ở trong hoàn cảnh cùng nhau này” không chỉ là
những cá nhân ngẫu nhiên gắn bó với nhau mà là cộng đồng chính trị tự nhiên.
Điều đó ít nhất sẽ làm dịu đi sức nóng mà xung đột giai cấp được thể hiện trong
diễn ngôn chính trị. Công lý cũng cần thiết, nhưng không thay thế được tình yêu
thương đối với người lân cận.
Thánh Giacôbê đã cảnh báo các Kitô hữu “không
thiên vị” khi nói đến sự giàu có: Đừng đối xử với người nghèo đến nhà thờ ăn
mặc luộm thuộm kém tôn trọng hơn người giàu ăn mặc đẹp. Thiên Chúa gần gũi với
người nghèo và yếu hèn, họ là người được Ngài yêu thương. X. (Gc 2:1-13)
Nhưng tình yêu Thiên Chúa dành cho con người
cũng không được thử thách bằng thu nhập. Thiên Chúa yêu thương người nghèo vì
họ thường dựa vào Chúa hơn dựa vào chính mình. Tất nhiên, điều đó làm nảy sinh
một câu hỏi đạo đức khác về sự vô tư, bất vụ lợi. Nhưng điều đó không có nghĩa
là người giàu tự động bất hòa với Chúa vì thu nhập của họ.
Chúng ta không nên đối xử tệ bạc với người
nghèo, nhưng chúng ta cũng không nên cho rằng người giàu cắt xén đạo đức để trở
nên giàu có hay cho rằng họ là người tệ bạc về mặt đạo đức vì muốn duy trì sự
giàu có. Điều đó cũng thể hiện sự thiên vị, mặc dù theo cách mà một số Kitô hữu
có vẻ thoải mái hơn.
Không đề cập đến các đề xuất chính sách cụ
thể, tôi quay lại các quan điểm cơ bản mà tác giả Wojtyła xác định nên làm sôi
động các cuộc thảo luận của chúng ta. Những gì chúng ta muốn có là sự công bằng
hay thực sự là các lợi ích mở rộng mà sự tôn trọng nguyên tắc bổ trợ gợi ý
không phải là mức độ công việc của chính phủ?
Chúng ta có coi hàng hóa hữu hình là một phần
của xã hội có trật tự tốt thúc đẩy sự phát triển toàn diện của con người hay là
những món quà để tranh giành? Chúng ta có coi “một phần trăm” là một người lân
cận thực sự đáng được yêu thương hay chỉ là một con đỉa đòi hỏi công lý cưỡng
bức? Những câu hỏi như vậy thực sự đánh dấu công lý xã hội Công giáo.
JOHN M. GRONDELSKI
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ TheCatholicThing.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment