Linh địa La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia Việt Nam. Dù chưa một lần đến nhưng chắc hẳn người Việt Công giáo nào cũng đã từng nghe nói và quen với hình ảnh Đức Mẹ La Vang, với trang phục truyền thống Việt Nam là áo dài và khăn đóng, tay bồng Con Trẻ Giêsu. Đặc biệt là linh đài có hình những chiếc nấm. La Vang là nơi không chỉ phải chịu cái nóng như lửa đốt mà còn chịu tang tóc vì lửa đạn một thời chiến cuộc, đặc biệt là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
May mắn tôi có dịp được đặt chân tới linh địa
La Vang (Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị) ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 2012. Không
chỉ vậy, tôi còn được biết một số địa danh lịch sử nổi tiếng khác. Trước tiên
là nhà thờ Mằng Lăng, nơi có hang tử đạo của Thánh Anrê Phú Yên (vị tử đạo tiên
khởi của Giáo hội Việt Nam), với câu nói “để đời” của vị thánh trẻ này: “Hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến
hết hơi, cho đến hết đời.” Một chủng sinh trẻ 19 tuổi mà có tư tưởng thật
lạ và tuyệt vời biết bao! Một câu nói nhẹ nhàng nhưng đủ sức xoáy vào lòng khiến
phải suy nghĩ nhiều và phải xem lại đức tin của chính mình.
Tôi còn được biết đến nhưng nơi lịch sử và
danh lam thắng cảnh khác như Đức Mẹ Sao Biển, thuộc một dòng nữ ở Nha Trang; Cổ
thành Quảng Trị âm thầm; dòng sông Thạch Hãn lịch sử; cầu Tràng Tiền danh
tiếng; con đường “Mưa Hồng” của cố NS Trịnh Công Sơn; Đại nội (cổ thành Huế)
trầm lặng bên dòng Hương Giang trôi lững lờ với khu Văn Lâu; trường Quốc Học
danh tiếng; Đan viện Thiên An (Dòng Biển Đức) với những ẩn sĩ trong những vách
đá để chiêm niệm Thiên Chúa, sống giản dị, chuyên cần cầu nguyện và miệt mài lao
động âm thầm trong sự tĩnh lặng của rừng cây thường xanh trên đồi cao; phố Hội
An cổ kính; Cáp treo Bà Nà giữa núi rừng tịch mịch; Nhà thờ Trà Kiệu, nơi Đức
Mẹ hiện ra ngày 10 và 11-9-1885 với lời động viên: “Này, Mẹ của các con đây! Đừng sợ!” và Đền Đức Mẹ Trà Kiệu (đồi Bửu
Châu); Nhà thờ chính tòa Nha Trang (Nhà thờ Núi) làm bằng đá, nơi an nghỉ của
ĐGM Marcel Piquet (1888-1966), tên Việt Nam là Lợi, với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để
trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến), giám mục tiên khởi của GP Nha
Trang và sáng lập Hội dòng Khiết Tâm Đức Mẹ; Tháp Thiên Y Thánh Mẫu với nét
kiến trúc độc đáo của người Chàm,…
Trưa ngày 14-8-2012, xe tới Linh địa La Vang.
Vừa bước xuống xe, cái nắng như đổ lửa hắt vào mặt rát nóng. Núi rừng âm u. Đất
sỏi đá khô cằn. Do đó mà con người miền đất này cũng phải vất vả lầm than lắm. Tuy
nhiên, khi tiếp xúc với họ, tôi thấy họ rất thật thà, chân chất, hiền hòa và
nói cười xởi lởi. Những đứa trẻ nhìn người qua lại với ánh mắt ngây thơ mà rất
lạ, vẫn ẩn chứa điều gì đó sâu thẳm… Một rừng người trong khu vực linh địa La
Vang. Nắng cứ nắng. Mồ hôi cứ chảy. Tay cứ vuốt mồ hôi, nhưng chân vẫn bước và
ai cũng nói cười vui vẻ. Càng lúc càng đông khách hành hương đổ dồn về. Dưới
chân linh đài lúc nào cũng có nhiều người đứng cầu nguyện.
Đêm xuống dần. Bước chân người vẫn không
ngừng đổ về từ tứ phía. Có những người thức trắng. Tiếng kinh không ngừng vang
lên bên linh đài Đức Mẹ La Vang. 20 giờ là phần diễn nguyện ca tụng Đức Mẹ và
vọng mừng Đức Mẹ lên trời ngay chân linh đài. Chỗ nào cũng thấy người, chen
chân qua rừng-người-hành-hương cũng khó.
Từ ngày Đức Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn
vào cuối thế kỷ 18 (có thể khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1798), hàng
hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về La Vang càng ngày càng đông. Họ đã kêu
cầu Đức Mẹ và đã được Đức Mẹ nhậm lời. Những tấm bia tạ ơn dày đặc là bằng
chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng.
Theo truyền thuyết, dưới thời vua Cảnh Thịnh,
nhà Tây Sơn có chính sách chống đạo Công giáo. Để tránh sự trừng phạt
của nhà Tây Sơn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất này.
Đây là khu vực đồi núi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau được thì họ phải “la” lớn,
mà “la” lớn thì “vang.” Thế là có tên La Vang.
Một truyền thuyết tương tự về chữ La Vang có
từ đặc tính của âm thanh chuyển thành địa danh, người ta nói rằng nơi chốn rừng
rú này xưa kia có nhiều cọp beo hại người. Do đó, những người đi rừng nếu ở lại
đêm thường phải chia phiên nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi
người đến tiếp cứu.
Cách giải thích khác là khi giáo dân chạy lên
vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc đó Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn họ đi tìm
một loại lá gọi là “lá vằng” – uống vào sẽ khỏi bệnh. Viết “lá vằng”
không dấu thành La Vang. Truyền thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vằng” đã
có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là
tỉnh Quảng Trị, cách 4 cây số, và cách Phú Xuân (Kinh đô Huế) 58 km về
phía Bắc.
Đền thờ La Vang được xây dựng năm 1925, hoàn
tất dịp Đại hội La Vang IX (1928). Năm 1958, La Vang đã được chọn làm địa điểm
tổ chức Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của ÐHY Agagianian, Tổng
Trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, đặc sứ của Thánh GH Gioan XXIII. Và ngày 22-8-1961,
Đức Gioan XXIII đã chính thức nâng nhà thờ La Vang lên bậc “Vương Cung Thánh
Ðường.”
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời là chúng ta hy vọng
được lên trời: “Xin được chết lành trong tay
Đức Mẹ và xin được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.” Được đặt chân
tới linh địa La Vang là “điều may mắn,” là hồng ân, nhưng cũng là một trách
nhiệm. Đó là bổn phận cầu nguyện cho những người khác, những người không “may
mắn” được đến La Vang, những người không có điều kiện để hành hương về La Vang.
Biết nhiều thì khổ nhiều vì trách nhiệm nhiều, biết nhiều là nợ nhiều. Nợ Thiên
Chúa và nợ tha nhân. Đó là “nợ tình” và “nợ máu.” Nợ tình với Thiên Chúa và với
tha nhân, nợ máu với Đấng Cứu Độ Giêsu.
Ai được đặt chân tới đất La Vang còn mắc một
món nợ nữa là nợ Đức Mẹ. Bởi vì Đức Mẹ luôn yêu thương những người kém may mắn
thì tín nhân cũng phải noi gương yêu thương của Đức Mẹ. Trên đường đi thấy có
nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, nhiều cao tầng, nhiều khu dân cư sầm uất, nhưng vẫn
còn nhiều khu dân cư nghèo lắm… Nhưng nhìn tổng thể thì thấy dân Việt Nam còn
nghèo khó quá, mà NGHÈO thì luôn kèm theo KHỔ. Chúng ta đang mắc nợ người nghèo,
vì Thánh Gioan Kim Ngôn nói: “Không cho
kẻ nghèo được chia sẻ của cải thuộc về họ là ăn cắp, là cướp lấy mạng sống của
họ. Của cải chúng ta đang nắm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ.”
Đó là công bằng, là công lý, mà khi nào có công lý thì mới có hòa bình đích
thực.
Không ai lại không mắc món nợ yêu thương. Đó
là món nợ lớn nhất mà chúng ta phải trả cả đời. Quả thật, ai trả xong món nợ
này mới “được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng” vậy.
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin thương xót và tha thứ những động thái mà chúng con đã thể hiện không
đúng Ý Ngài, đồng thời xin giúp chúng con can đảm sống trọn Luật Yêu của Ngài.
Lạy
Mẹ Maria, xin thương xót và chúc lành cho những người không đủ điều kiện đến
linh địa La Vang để tâm sự và bày tỏ nỗi lòng với Mẹ, vì họ nghèo lắm. Xin giúp
chúng con mau mắn “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh và kiên tâm theo Thầy Giêsu để
xứng đáng lên trời và đồng hưởng thiên phúc với Mẹ muôn đời. Chúng con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment