Với việc dành riêng cho các linh hồn, Tháng Mười Một chứng kiến người Công giáo trên khắp thế giới đổ về các nghĩa trang để cầu nguyện và dâng lễ thay cho những người thân yêu đã qua đời. Ánh nến lung linh yên bình trên các ngôi mộ nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện liên tục của những người đã chết trong Chúa Kitô.
Việc chăm sóc nghĩa trang có truyền thống lâu
đời trong đạo Công giáo. Người ta biết rõ rằng trong thời kỳ bách hại, những
người theo Kitô giáo đã duy trì nghĩa trang trong những hầm mộ nổi tiếng, những
phòng dưới lòng đất được khoét trong lòng đất. Những ngôi mộ này được chăm sóc
bởi một tầng lớp thợ thủ công đặc biệt được gọi là fossor hay fossore trong
tiếng Latin. Họ đã thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, đáng chú ý nhất là đào
những lối đi mà người theo Kitô giáo chôn người chết. Một bức bích họa nổi
tiếng về hóa thạch thế kỷ thứ 4 có tên là Diogenes được phát hiện vào những năm
1700 trong cuộc khai quật của Antonio Boldetti. Một dòng chữ xác định Diogenes
là một fossor trong khi hình ảnh cho thấy một người đàn ông cầm một cái cuốc, bản
sao hình ảnh vẫn thấy ở nhà thờ St. Marcellino ở Rôma ngày nay. [1]
Tuy nhiên, các fossor đã làm nhiều việc hơn
là chỉ đào mộ. Họ cũng đóng vai trò là người canh giữ hầm mộ, bảo đảm rằng cơ
sở hạ tầng vật chất của các ngôi mộ được duy trì và không bị phá hoặc bị cướp. Những
ngày sau đó, sau khi hợp pháp hóa Kitô giáo, các fossor tiếp tục là người trông
coi, quản lý tài sản và hướng dẫn viên du lịch, dẫn những người hành hương đi
qua mê cung của những lối đi để kính viếng lăng mộ các vị tử đạo. [2] Các
fossor cuối cùng đã chết khi các giáo hoàng của thế kỷ thứ 5 và 6 di chuyển hầu
hết các thánh tích tử đạo từ hầm mộ lên các nhà thờ ở Rôma. [3]
Thời Trung Cổ chứng kiến sự trỗi dậy của
nghĩa trang giáo xứ như một địa điểm tiêu chuẩn để chôn cất những người theo Kitô
giáo. Ngày nay, hầu hết các nghĩa trang của giáo xứ đều tách biệt khỏi nhà thờ –
bên kia đường, hoặc một khu đất khác thuộc sở hữu của giáo xứ. Tuy nhiên, thời
xa xưa, nhà thờ giáo xứ luôn có những ngôi mộ bao quanh, thể hiện sự hiệp nhất
giữa người sống và người chết cùng quây quần quanh Hy Lễ Thánh Thể.
Vì tính quan trọng của Thánh Lễ, người ta
mong muốn được chôn cất càng gần bàn thờ càng tốt, nhưng rõ ràng là không có
chỗ cho mọi người trong nhà thờ. Điều này dẫn đến sự xuất hiện của một hệ thống
phân cấp xã hội giữa các nơi chôn cất, với các thành viên có ảnh hưởng hơn trong
cộng đồng dùng sự giàu có hoặc ảnh hưởng của họ để bảo đảm việc chôn cất trong
nhà thờ, càng gần bàn thờ càng tốt. Điều đó được coi là lạm dụng, và nhiều nơi đã
có luật cấm giáo dân được chôn cất trong nhà thờ trừ khi họ xứng đáng được như
vậy nhờ đời sống đạo đức lành mạnh. Một sắc lệnh như vậy từ ĐGM Theodulfus (mất
năm 821), GP Orleans, còn tồn tại. Ngài ra lệnh: “Từ nay trở đi, không ai được
chôn cất trong nhà thờ, trừ khi đó là một người nào đó là tư tế hoặc ít nhất là
một giáo dân có lòng đạo đức đến mức người ta biết người đó đã công đức của cải
khi sống ở một nơi như vậy để xác chết của họ yên nghỉ.” [4]
Trong hầu hết thời Trung Cổ, tập tục này đã
được tuân thủ, ít nhất là về lý thuyết – không gian chôn cất trong nhà thờ hoặc
nhà nguyện được dành riêng cho giáo sĩ và tu sĩ (những người được tôn kính như
thánh nhân thường an táng bên dưới bàn thờ), trong khi các giáo dân đạo đức cũng
có thể được an táng trong nhà thờ, mặc dù thường không gần bàn thờ như các giáo
sĩ. Một ví dụ tuyệt vời về điều này là Charterhouse ở Gaming, Áo, một tu viện
Carthusian trước đây được thành lập vào năm 1330 bởi Công tước Albrecht II đạo
đức của Áo, được an táng cùng với vợ là Joanna ở bên dưới lối đi chính của gian
giữa.
Người dân thường phải định cư để được chôn tại
nghĩa trang xung quanh nhà thờ giáo xứ. Mọi người thường đặt chân về phía đông,
phản ánh sự thờ phượng của Kitô giáo hướng về phía đông, cũng như niềm tin
chung rằng vào ngày cuối cùng, Chúa Kitô sẽ trở lại từ phía đông và triệu tập
người chết từ ngôi mộ của họ. Thật vậy, điều này thường được dùng như một yếu
tố quyết định thời điểm một khu vực cụ thể được Kitô giáo hóa. Ví dụ, vào thế
kỷ thứ 3 và 4, các ngôi mộ của người La Mã ở Gaul thường được đặt đầu về phía
tây. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ 5 và 6, định hướng này đã đảo ngược, cho thấy
rằng vùng nông thôn đã được Kitô giáo hóa trong thời kỳ đó, thể hiện qua việc
sắp xếp các thi thể. [5]
Hầu hết các giáo phận đều có quy định về cách
sắp xếp và duy trì nghĩa trang. Một chỉ thị thế kỷ 13 của ĐGM Hugh Wells, GP
Lincoln, cho biết: “Về việc sắp xếp sân
nhà thờ [nghĩa trang], mặt đất phải được bao bọc cẩn thận bằng tường hoặc
mương, và không được phép xây dựng bất kỳ loại nhà nào, trừ trong thời gian
chiến tranh. Phải có một cây Thánh Giá tốt và được xây dựng tốt trong sân nhà
thờ để rước vào Chúa Nhật Lễ Lá, trừ khi phong tục quy định việc rước phải được
thực hiện ở nơi khác.”
Một số nhà thờ còn có một cấu trúc lớn bằng
đá có gắn đèn gọi là “Lanterne des Morts” (Đèn Lồng Người Chết). Đèn lồng này được
thắp sáng vào ngày lễ Cầu Hồn và Thánh Lễ được cử hành tại nghĩa trang dưới
chân cột. Đôi khi chúng khá lớn, giống như những tòa tháp. Đèn Lồng Người Chết phổ
biến ở Pháp, Ba Lan và Đức. [6]
Ngay cả trong sân nhà thờ cũng có dạng thứ
bậc xã hội. Trong khi các giáo dân bình thường không thể mong đợi được chôn cất
trong khuôn viên nhà thờ, thì vị trí tốt nhất tiếp theo là được chôn cất theo kiểu
“sub stillicidio” (dưới giọt nước mái nhà). Các ngôi mộ này được mong muốn vì
vị trí của chúng cho phép nước mưa được thánh hóa khi tiếp xúc với nước từ mái nhà
thờ rơi xuống ngôi mộ, tạo thành một loại phúc lành còn sót lại. [7] Dạng mai táng
sub stillicidio có thể sẽ được chôn cất bởi những người bình thường, những
người chắc chắn đã trả tiền cho vị trí đặc quyền – mặc dù ở Anglo-Saxon, vị trí
sub stillicidio dường như được dành riêng cho trẻ sơ sinh và phụ nữ chết khi
sinh con. [8] Vị trí tốt nhất tiếp theo là ở nơi gọi là “atrium” – khu đất
vuông vức ngay ở xung quanh nhà thờ. Những người nghèo, những người xa lạ và
những người có ít nguồn lực được chôn sâu hơn trong sân nhà thờ, cách xa nhà
thờ hơn. [9]
Về phương diện lịch sử, Công giáo đã nuôi
dưỡng một di sản phong phú về truyền thống và các biểu tượng xung quanh nghĩa
trang và nghi lễ mai táng. Chúng ta hãy nhớ các truyền thống này khi chúng ta
tiếp tục phong tục cổ xưa là tôn kính mộ của những người thân yêu đã khuất bóng
trong Tháng Cầu Hồn này.
PHILLIP CAMPBELL
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Đêm
10-11-2023
[1] Xem “Fossor” in Encyclopaedic Dictionary of
Christian Antiquities, Vol. 3 ed. William Smith & Samuel Cheetham (New Delhi:
Logos Press, 2005), 684.
[2] See Estelle Shohet
Brettman, Vaults of Memory: The Roman Jewish Catacombs and their Context
in the Ancient Mediterranean World, rev. ed. Amy K. Hirschfeld, Florence
Wolsky, & Jessica Dello Russo (Boston: International Catacomb Society,
2017).
[3] A. Waal, “Roman
Catacombs,” in The Catholic Encyclopedia (New York: Robert
Appleton Company, 1908). Xem tại http://www.newadvent.org/cathen/03417b.htm
[4] John Curran, “Cemetery,” The Catholic Encyclopedia.
Vol. 3 (New York: Robert Appleton Company, 1908). Xem tại http://www.newadvent.org/cathen/03504a.htm
[5] Edward James, The Franks (Oxford:
Basil Blackwell Ltd, 1988), 141
[6] Wikipedia, “Lanterns of the Dead,” https://en.wikipedia.org/wiki/Lanterns_of_the_Dead
[7] James, 147-148.
[8] Elizabeth Craig Atkins, “Eavesdropping on
short lives: Eaves-drip burial and the differential treatment of children one
year of age and under in early Christian cemeteries,” in Hadley, D.M. and
Hemer, K.A. (eds). Medieval Childhood: Archaeological Approaches (Oxbow Books:
Oxford & Philadelphia, 2014), pp. 95-113
[9] James, 147.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment