Kinh Thánh dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ.” (Hc 3:1-16) Đó là giới răn thứ tư trong Mười Điều Răn mà Đức Chúa đã ban truyền qua ông Môsê trên núi Sinai. (Xh 20:3-17)
Giọt nước nào cũng phải có nguồn, có nơi phát xuất. Giọt mưa rơi xuống từ trời. Dù chỉ là giọt nước máy thì cũng phải chảy ra từ chiếc vòi, thậm chí từ chiếc bình. Con người cũng vậy, ai cũng phải có tổ tiên, có cha có mẹ.
Tục ngữ Việt Nam nhắc nhở: “Uống nước nhớ nguồn.” Những từ ngữ rất
giản dị, mộc mạc, nhưng lại chuyển tải cả một đạo lý làm con đối với song thân
phụ mẫu, những người đã sinh dưỡng chúng ta.
Có nhiều ca khúc viết về mẹ, như bài “Lòng
Mẹ” của cố NS Y Vân, nhưng lại hiếm bài viết về cha – có lẽ cha thâm trầm nên
người ta khó “cảm” hơn.
Có một ca khúc thể hiện cả công cha và nghĩa
mẹ là bài “Ơn Nghĩa Sinh Thành” của cố NS Dương Thiệu Tước. Ca khúc này được
lồng trong tiết tấu chậm với nhịp 4/4, âm thể Rê trưởng (D), giai điệu mượt mà
và đầy cảm xúc. Tiết tấu chậm khiến người ta lắng lòng xuống để trầm tư, nhưng
không buồn mà vẫn “sáng” trong âm thể Rê trưởng.
Ca từ thật đẹp và đầy tính giáo dục được rút
ra từ ca dao tục ngữ phổ biến: “Uống nước
nhớ nguồn, làm con phải hiếu. Em ơi, hãy nhớ năm xưa, những ngày còn thơ, công
ai nuôi dưỡng.” Ai cũng được cha mẹ sinh ra và nhờ công lao dưỡng dục vô kể
của cha mẹ. Công lao đó được đúc kết trong 9 chữ, gọi là 9 đức cù lao: Sinh
(đẻ), Cúc (nâng đỡ), Phủ (ấp ủ, vỗ về), Súc (bú mớm, cho ăn), Trưởng (nuôi cho
lớn khôn), Dục (dạy dỗ), Cố (trông nom), Phục (săn sóc, theo dõi), Phúc (bao
bọc, chở che).
Câu tiếp theo là lời khuyên răn và nhắc nhở
bổn phận làm con: “Công đức sinh thành,
người hỡi đừng quên. Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra.” Những lời chân chất, không có gì bóng gió, thế nên không hề khó
hiểu.
NS Dương Thiệu Tước phân tích thêm: “Người ơi, làm người ở trên đời, nhớ công
người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân. Vì đâu, anh nên người tài ba? Hãy nhớ
công sinh thành, vì ai mà có ta?” Cách hỏi nhẹ nhàng mà như “xoáy” vào tận
đáy lòng. Thật vậy, chúng ta có thành nhân và thành công thì cũng đều nhờ công
lao của cha mẹ.
Rất nhiều sinh viên đi học xa nhà, được no
cơm ấm áo, nhưng cha mẹ ở nhà phải hy sinh trăm bề, có khi cả chỗ nằm ngủ cũng
không được tươm tất, mưa tạt gió thổi, thế mà khi nên danh phận, có một số
người lại phủi tay, cho rằng mình giỏi giang và văn minh, rồi chê cha mẹ “cổ hủ,”
thậm chí họ còn không muốn nhận cha mẹ mình trước mặt người khác. Thất đáng xấu
hổ. Buồn thay!
Câu cuối vẫn là lời nhắc nhở, rạch ròi hơn: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu.
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Cánh-diều-con bay lên là nhờ dây-cha-mẹ, diều-con càng cao vút thì dây-cha-mẹ
càng thêm sức nặng của gió. Đừng bao giờ lãng quên, người ơi!
Trong “Kinh Thi” (tập sách ghi nhận có
những câu ca dao cổ của người Trung Hoa) có hai câu với ý nghĩa tương tự. Một
câu mô tả cụ thể ơn đức của cha mẹ: “Phụ
hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, xúc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã,
phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực.” (Cha
sinh ra ta, mẹ nâng đỡ ta, vuốt ve ta, cho ta bú, nuôi ta khôn lớn, dạy bảo ta
nên người, chăm lo ta, ôm ấp ta, ra vào để bảo vệ ta. Muốn đáp trả ơn huệ ấy,
chỉ biết như bầu trời lồng lộng đến vô cùng.)
Một câu khác mang tính tượng hình, nêu lên
khát khao báo đáp của người con: “Phụ hề
sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Dục báo thâm ân, hạo
thiên võng cực.” (Cha sinh ta, mẹ nâng đỡ ta. Thương thay cha mẹ, sinh ra
ta bao khó nhọc. Muốn đáp trả ơn sâu ấy, chỉ biết như bầu trời lồng lộng đến vô
cùng.)
Công ơn cha mẹ thật lớn lao, cao vời khôn ví,
ca dao Việt Nam chỉ mang tính tương đối, vì con người chỉ có thể ví như thế mà
thôi:
Nhưng vấn đề quan trọng không phải ví von cho
vui, nói bằng đầu môi chót lưỡi, mà vấn đề phải là:
Thánh Phaolô nói
về các đức đối nhân, và cũng là điều mà con cái phải đối xử với cha mẹ trước
tiên: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. (1 Cr 13:1-13)
Thánh sử Luca cho
biết: Sau ba ngày lạc mất Con Trẻ, Cô Maria và Chú Giuse mới tìm thấy con trong
Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu
nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy
con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và
mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48) Cậu Giêsu đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:49)
Chúa Giêsu thông minh, siêu phàm, nhưng Ngài
vẫn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài.” (Lc
2:51) Ngài có hiếu với cha mẹ, vâng lời cha mẹ, chúng ta không thể không noi
gương Ngài. Nếu không thì “không ổn” đâu! Vì ông Môsê đã dạy: “Ngươi hãy thờ
cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử!” (Mc 7:10) Hãy coi
chừng!
TRẦM THIÊN THU
* NS Dương Thiệu Tước (1915–1995) là một nhạc sĩ tiền chiến
nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của nền tân nhạc
Việt Nam. Ông sinh ngày 15-5-1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng
Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông xuất thân từ gia đình Nho học truyền
thống, là cháu nội cụ nghè Vân Đình Dương Khuê, nguyên Đốc học Nam Định.
Thập niên 1930,
ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa Lưu Ly) gồm các nhạc sĩ Thẩm
Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh,... Ông có sáng kiến “soạn nhạc Tây theo điệu ta,” các
nhạc phẩm hồi đầu của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Dù học nhạc Tây
nhưng nhạc của ông vẫn đượm hồn dân tộc. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý:
“Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể
hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ
nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các làn điệu cổ
truyền.”
Ông vào Nam sống từ 1954. Tại Saigon, ông làm
chủ sự phòng văn nghệ tại Đài phát thanh Saigon, đồng thời được mời dạy lục huyền
cầm (Tây ban cầm, Guitar) tại trường Quốc gia Âm nhạc (Nhạc viện ngày nay).
Vợ cả và cũng là chính thất của ông là bà Lương Thị Thuần, hiện con cái sống tại Đức và Hoa Kỳ. Vợ sau của ông là Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng hồi thập niên 1950, có con riêng là ca sĩ Quỳnh Giao. Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga tại Bình Thạnh (Saigon) và được bà chăm lo cho tuổi về chiều. Ông mất ngày 1-8-1995 tại Saigon. Các ca khúc tiêu biểu của ông: Bóng Chiều Xưa, Cánh Bằng Lướt Gió, Chiều (thơ Hồ Dzếnh), Dưới Nắng Hồng, Đêm Ngắn Tình Dài, Đêm Tàn Bến Ngự, Hờn Sóng Gió, Khúc Nhạc Dưới Trăng, Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi Quê Hương, Sóng Lòng, Tiếng Xưa, Uống Nước Nhớ Nguồn (viết chung với NS Hùng Lân),…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment