Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính.
Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không
việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và
ít bụi hoa.
Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.
Một ngày kia có vị linh mục đến đặt hàng làm
ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông cha”
giao tiếp với ông, Thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua! Ông cha
này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện.
Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai
mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa
Giêsu cao một mét bảy.
– Nhưng thưa ông, Chúa Giêsu là ai, tôi không
biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi? Vị Linh Mục thoáng ngẩn
người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh
chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề,
giọng đầy phân vân:
– Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng…
Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi
cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ
bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết
đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị linh mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện
cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
– Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi,
hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.
Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ
cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của
các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật
với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một
người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra
những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của
người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa
chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút
nào của sự oán trách, thù hận!
Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc,
ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người
Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi
môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!
Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng
rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng
dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn
bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm
ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp
khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn
của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như
vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy
cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!
Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó
của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ
ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm
về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này
có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ
một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo Chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy
dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! Cái điệp khúc “Phần Ta,
Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp,
mới thánh thiện làm sao! Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông
thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông
thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi
ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông!
Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm
thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì
bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông sắp chết, nhưng
nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.
Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến:
Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn
quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp
ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giêsu phải chịu. Ông
mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? Ừ, có
thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không?
Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ
hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn.
Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt
lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” Mà
tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha.” Một gương mặt tội nhân mà
sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Một
gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại! Từng nhát
đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giêsu
đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng
phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi
Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính
Người tự nguyện chết thay cho nhân loại?
Gương mặt Chúa Giêsu thánh thiện và khả ái
làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông
vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê
bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.
Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc,
toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi
mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy
hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không
tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa! Ông bước xuống giường đi ra cửa và
bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói lòa toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng
mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn
thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào
dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh
sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…
Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác
ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa
ngồi nửa quỳ, mặt nhìn lên Thánh Giá.
(sưu
tầm – không thấy ghi tác giả)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment