Chính xác như vậy, vì Kinh Thánh nói rằng “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20:9) và “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người.” (1 Cr 15:25)
Người Việt có câu
“cửa miệng” rất bình dân: “Chó chết là
hết chuyện.” Nói vậy là sao? Vì “chó” là loài động vật “phổ biến” đối với
dân Bắc (mà miền Bắc là “gốc” của Việt quốc, miền Nam là do “giành dân chiếm
đất” từ cuộc Nam Tiến xưa kia).
Câu nói đó giản dị mà thâm thúy, liên quan nhiều thứ, thậm chí liên quan cả đức tin Kitô giáo. Tại sao? Có nói ngoa không? Thưa là “không.” Tại sao là “không”? Thánh Phaolô xác định: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy.” (1 Cr 15:13) Đức Kitô phục sinh là “ấn tín” chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Bài “Công bố Tin Mừng Phục Sinh” (Exultet), trong đêm Vọng Phục Sinh, nói rõ: “Nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”
Nếu Đức Kitô
không phục sinh vinh thắng, tất nhiên chúng ta cũng không bao giờ sống lại, thế
thì niềm tin của chúng ta là hão huyền, cuộc sống của chúng ta vô ích, chúng ta
chẳng khác gì “chó chết,” sống rồi chết, người ta ăn tiết canh và “sống trên
đời ăn miếng dồi chó,” thế là xong, và thế là “hết chuyện.” Thế thì chúng ta
chẳng hơn gì loài động vật hoặc sinh vật. Động vật có giác hồn (sống và biết
buồn, biết vui,…), sinh vật có sinh hồn (sống mà không biết vui, buồn,…), nhưng
chúng ta có linh hồn (sống và biết buồn, biết vui,… đặc biệt là có đời sống tâm
linh).
Sống cũng có
những cách sống khác nhau, sống cũng có “điều kiện.” Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô,
chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người.” (Rm 6:8) Đó mới thực sự là NIỀM TIN của chúng ta.
Tiếng A-lê-lu-ia
quá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là trong Mùa Phục Sinh. Tôi không rành khoa
ngôn ngữ (ngữ học), chỉ mày mò Việt ngữ cũng chưa “nên thân,” dĩ nhiên là không
dám “múa rìu qua mắt thợ,” nhưng thấy người ta nói rằng âm Việt ngữ đọc là A-lê-lui-a,
theo tiếng Hy Lạp là Αλληλούϊα (Ha-lê-lui-a), thấy các nhà ngôn ngữ trích
dẫn Kh 19:3 đã ghi: “Ha-lê-lui-a! Khói
lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!” (Καὶ δεύτερον εἴρηκεν,
Ἁλληλούϊα: καὶ ὁ καπνὸς αὐτῆς ἀναβαίνει εἰς τοὺς αἰῶνας τῶν αἰώνων)
Hallelujah,
Halleluia, Allelluja, Alleluia, thậm chí có người còn viết là Alleluya. Viết
thế nào? Thực ra đó chỉ là quy ước của nhân loại. Chẳng biết Tây hay Ta, mà chỉ
là “ba rọi,” theo thiển ý của tôi, âm “ia” phát âm gần giống Việt âm là “da,”
thế thì cứ Việt hóa luôn. Cứ đọc “toạc móng heo” ra là Ha-lê-lu-da hay
A-lê-lu-da cho… “khỏe.” Nửa nạc nửa mỡ, chả ai biết thế nào, mà dân Việt mình
đâu có vốn ngoại ngữ nhiều, không khéo lại hóa “ngại ngữ” đấy! Tại sao? Vì cách
phiên âm của Việt Nam không thống nhất. Ví dụ: Giêsu hay Giêxu? Công giáo ưa
dùng Giêsu hoặc Giê-su, Tin Lành thích dùng Giê-xu. Rồi còn cách viết-phiên-âm
nữa, có người nói “phải” có “gạch nối” (-), có người lại nói là “không được”
dùng “gạch nối.” Nhiêu khê quá! Chú ý “bề ngoài” nhiều quá hóa mệt!
Viết này, viết nọ
rồi “minh chứng” là “h aspiré,” “haleine” hoặc “muet” để làm gì? Có thực sự cần
không? Có chăng chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu hoặc người biết loại ngôn
ngữ đó. Giới bình dân có mấy ai hiểu? Còn hơn là “vịt nghe sấm.” Sao không nói
dùng Việt ngữ là “câm” cho mọi người cùng hiểu? Tục ngữ Việt Nam có câu hay
lắm: “Thà chết đống hơn sống một mình.”
Chí lý thật!
Sự thật mất lòng,
nói thẳng như ruột ngựa chứ “vòng vo tam quốc” chi cho rắc rối. Mà bản chất
ngôn ngữ là giản dị, nói sao người ta hiểu đúng ý là được, “màu mè” và “rườm
rà” chỉ là dạng “chảnh,” muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình. Khi dịch từ tiếng
nước này sang tiếng nước nọ cũng vậy, ai cũng “mắc dịch,” vừa khôi hài vừa thâm
ý! Thế nên người ta thường phải sử dụng “ngôn ngữ cơ thể” – Hán Việt gọi là
“thể ngữ.”
Xưa nay người ta
cho rằng Chị Maria Mađalêna đã từng bị người ta lôi ra ném đá và được Chúa
Giêsu tha bổng, (x. Ga 8:2-11) Chị cũng lại bị người ta chê trách khi Chị lấy
dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau, (x. Ga 12:1-8) [*] rồi
Chị còn hoảng hốt khi thấy mộ trống, tưởng thi hài Thầy bị lấy mất. (Ga 20:1-2)
Thế nhưng Ga
12:1-8 không nói người xức dầu Chúa Giêsu là Maria Mađalêna, mà là Maria ở
Bêtania, chị em với Mácta và Ladarô. Còn Maria Mađalêna là NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐƯỢC
THẤY CHÚA GIÊSU PHỤC SINH. (x. Ga
20:11-18; Mt 28:9-10; Mc 16:9-11) và cũng là nhân chứng đầu tiên về Chúa Giêsu
phục sinh. Chị lãnh sứ vụ báo tin Chúa phục sinh cho các môn đệ. Sau khi được
Chị báo tin, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô chạy đến mộ và đã ngớ người ra khi thấy
mộ trống!
Đặc biệt là trong Lễ Phục Sinh, Giáo Hội còn có phần Ca Tiếp Liên nói về việc “Bà Maria gặp Chúa phục sinh và được giao nhiệm vụ về loan báo cho các tông đồ.” Có ai “cần” hoặc “dám” nói gì thêm không?
Chúa Giêsu phục sinh, đó là niềm hạnh phúc tột
đỉnh của nhân loại, của mỗi tội nhân chúng ta. Phàm ngữ không thể đủ từ ngữ để
diễn tả, điều duy nhất chúng ta có thể làm là chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ không
ngừng, đồng thời phải loan truyền về Đức Kitô Phục Sinh hằng ngày, qua từng
động thái, theo từng nhịp thở mà thôi!
TRẦM THIÊN THU
[*] Xin “mở
ngoặc” nhỏ: Theo truyền thống cho rằng Chị Maria Mađalêna là người tội lỗi,
nhưng thực ra không phải vậy, mà Chị là người được trừ bảy quỷ (Mc 16:9; Lc
8:2) và cùng ở bên Thánh Giá với một số phụ nữ khác. (Mt 25:56) Có lẽ nguyên
nhân Chị bị oan là do “bắt nguồn” từ bài giảng XXXIII của Thánh GH Grêgôriô Cả:
“Bà [Maria Mađalêna] là người mà Thánh
Luca gọi là phụ nữ tội lỗi, Thánh Gioan gọi là Maria, chúng ta tin là Maria
được trừ bảy quỷ trong Phúc Âm theo Thánh Máccô. Bảy quỷ này biểu hiện điều gì,
nếu không phải là các thói hư? Anh chị em thân mến, rõ ràng là phụ nữ này trước
đó đã xức thơm thân xác cô bằng những hành động bị cấm. Do đó điều cô biểu hiện
càng khiếm nhã hơn, nhưng nay cô dâng cho Chúa bằng động thái đáng khen. Cô đã
ham muốn bằng con mắt trần tục, nhưng nay cô ăn năn bằng nước mắt. Cô đã xõa
tóc che mặt, nhưng nay cô dùng tóc lau khô nước mắt. Miệng cô đã nói những điều
kiêu ngạo, nhưng nay cô dùng miệng hôn chân Chúa, cô đặt miệng mình lên chân
Đấng Cứu Thế. Do đó, đối với mỗi niềm vui, cô đã có trong lòng, nay cô hy sinh
chính mình. Cô biến tội lỗi thành nhân đức để phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn
trong sự ăn năn.”
Về vấn đề này,
tác giả Susan Haskins viết trong cuốn “Mary Magdalene: Myth and Metaphor”
(Maria Mađalêna: Huyền Thoại và Ẩn Dụ): “Cuối
cùng, hình ảnh xung đột của Thánh Maria Mađalêna cũng được sáng tỏ.”
[Đăng báo TTĐM tháng 4-2014, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc xuất bản tại Hòa Kỳ]
✽ Thắng Lý Người Vô Thần
✽ Lá Thư của Người Mẹ gởi Đứa Con Chống Công Giáo
✽ Gặp Chúa Phục Sinh Trong Kinh Nguyện
✽ Chứng Cớ Phục Sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment