1/2 –THÁNH ANSGAR, GIÁM MỤC (801-865)
Vị “tông đồ của phương Bắc” (vùng Scandinavia) có đủ thất vọng khi muốn nên thánh,nhưng ngài đã làm được. Ngài là tu sĩ Dòng Bênêđictô ở Corbie (Pháp quốc), nơi ngài đã được giáo dục. Ba năm sau, khi vua Đan Mạch trở lại đạo, Ansgar đến nước này truyền giáo 3 năm, dù không có thành công nào đáng kể. Người Thụy Điển yêu cầu các nhà truyền giáo Kitô giáo đến, và ngài đã đến. Ngài bị hải tặc bắt và gặp nhiều gian khó khác trên đường đi.
Gần 2 năm sau, ngài là Tu viện trưởng một dòng khác ở Corbie (Corvey) và trở thành giám mục GP Hamburg. Giáo hoàng chọn ngài làm Đại sứ truyền giáo cho người Scandinavia. Rồi Hoàng đế Louis băng hà. Sau 13 năm làm việc ở Hamburg, Thánh Ansgar chứng kiến thành phố này bị người phương Bắc san thành bình địa, người Thụy Điển và Đan Mạch trở thành ngoại giáo.
Ngài
điều hành việc tông đồ khác ở phương Bắc, đến Đan Mạch và làm cho một vua khác
trở lại đạo. Nhờ áp dụng “cách lạ” là rút thăm, vua Thụy Điển cho phép các nhà
truyền giáo trở lại. Các nhà viết tiểu sử của Thánh Ansgar nhận thấy ngài là
một người rao giảng ngoại hạng, là một linh mục khiêm nhường và khổ hạnh. Ngài
được chọn là thánh bổn mạng của người nghèo và bệnh nhân, ngài noi gương Chúa
Giêsu rửa chân cho họ và phục vụ họ ở bàn ăn. Ngài qua đời tại Bremen (Đức
quốc). Ngài muốn được tử đạo nhưng không trọn ước nguyện. Sau khi ngài qua đời,
người Thụy Điển lại bỏ đạo, mãi đến 200 năm sau mới lại có các nhà truyền giáo
khác.
2/2 – ĐỨC MẸ DÂNG CON (Lễ Nến)
Cuối thế kỷ thứ IV, một phụ nữ tên là Etheria đi hành
hương tới Giêrusalem. Bản ghi chép của bà được tìm thấy năm 1887, cho thấy một
thoáng nhìn về đời sống phụng vụ hồi đó. Trong số các nghi thức bà mô tả có lễ
Hiển Linh (6 tháng 1), việc mừng Chúa giáng sinh, và mừng Đức Mẹ dâng Con trong
Đền Thờ 40 ngày sau (15 tháng 2). Theo luật Môsê, một phụ nữ phải làm lễ Tẩy
trần sau khi sinh con 40 ngày, khi phụ nữ này đến gặp các tư tế và dâng của lễ
để thanh tẩy. Lễ này nhấn mạnh sự xuất hiện lần đầu tiên của Chúa Giêsu nơi Đền
Thờ hơn là sự tẩy trần của Đức Mẹ.
Việc tuân thủ này lan truyền qua Giáo hội Tây phương
hồi thế kỷ thứ V và VI. Vì Giáo hội Tây phương mừng lễ Giáng Sinh ngày 25 tháng
12, lễ Đức Mẹ dâng Con được dời qua ngày 2 tháng 2 cho đủ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh.
Từ đầu thế kỷ thứ VIII, ĐGH Sergius cho rước nến.Cuối
thế kỷ thứ VIII, việc làm phép nến và phân phát nến được áp dụng cho đến ngày
nay, vì thế mà lễ này còn được gọi là Lễ Nến (Candlemas).
Chính tay ông Simêôn ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên
Chúa bằng bài thánh ca “An Bình Ra Đi” (Nunc Dimittis – Lc 2:29-32): “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ,
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh
quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
3/2 –THÁNH BLASIÔ, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (+ 316)
Chúng ta biết nhiều về việc các tín đồ Kitô giáo khắp
thế giới sùng kính Thánh Blasiô hơn là biết về chính thánh nhân. Lễ kính ngài
được coi như ngày thánh trong một số Giáo hội Đông phương. Công nghị Oxford, năm
1222, cấm làm việc xác vào ngày lễ Thánh Blasiô ở Anh. Người Đức và Slavs đặc
biệt tôn kính ngài và nhiều người Công giáo Mỹ xin Thánh Blasiô chúc lành cho
thanh quản của họ.
Chúng ta biết rằng Thánh Giám mục Blasiô tử đạo ở
thành phố Sebastea, Armenia, năm 316. Sách “Công Vụ Thánh Blasiô” (Acts of St. Blasé) được viết vào 400 năm
sau. Theo sách này, Thánh Blasiô là vị giám mục tốt lành, làm việc cần mẫn để khuyến
khích sức khỏe tinh thần và thể lý của giáo dân. Mặc dù có chỉ dụ “Lòng Khoan
Dung” (năm 311) cho phép tự do tôn giáo ở đế quốc Rôma, được ban hành 5 năm, sự
bắt đạo ở Armenia vẫn gay gắt. Thánh Blasiô phải trốn sang nước khác. Ngài sống
ở đó như vị ẩn tu trong cảnh tĩnh mịch và cầu nguyện, chỉ làm bạn với thú rừng.
Một hôm, có một nhóm thợ săn tìm thú ở hang động của Thánh Blasiô. Mới đầu họ
ngạc nhiên rồi kinh sợ vì thấy ngài quỳ gối cầu nguyện mà xung quanh là sói, sư
tử và gấu.
Truyền thuyết kể rằng, khi những người thợ săn kéo Thánh
Blasiô ra ngoài, một người mẹ bế đứa con nhỏ bị hóc xương cá đến, ngài yêu cầu
và đứa bé đã ho bật xương cá ra.
Agricolaus, thống sứ vùng Cappadocia, cố thuyết phục Thánh
Blasiô bỏ đạo. Lần đầu ngài từ chối, ngài liền bị đánh đập. Lần sau, ngài bị
treo lên cây và bị lóc thịt bằng chiếc bồ cào. Cuối cùng ngài bị chém đầu.
4/2 –THÁNH GIUSE LEONISSA (1556-1612)
Tên khai sinh đầy đủ của ngài là Gioan Eufranio
Desideri. Ngài sinh ngày 8-1-1556 tại Leonissa (Umbria, Ý quốc).
Ngài là con thứ ba trong tám
người con, mồ côi cha mẹ lúc 12 tuổi, được người chú là Battista
Desideri, giáo viên ở Viterbo, nuôi dưỡng và cho ăn học. Giuse được mai mối kết hôn với một cô gái quý tộc,
nhưng ngài lại muốn đi tu. Ngài sợ làm chú buồn và làm cô
gái thất vọng, ngài trở về Leonissa. Ở đây, ngài ấn tượng về các tu sĩ Dòng Phanxicô.
Ngài nhập Dòng Phanxicô (Capuchins) ngày 8-1-1573, lúc 18 tuổi. Sau một năm
thỉnh sinh, ngài chính thức lấy tên dòng là Giuse. Ngài tự nguyện không ăn
những cao lương mỹ vị và không dùng những gì tiện nghi, sống khổ hạnh, ăn chay
mỗi tuần ba ngày, tay luôn cầm Thánh Giá, nằm ngủ trên tấm ván.
Giuse thụ phong linh mục ngày 24-12-1580 tại Amelia. Ngài truyền giáo khắp các vùng Umbria,
Lazio và Abruzzi. Có băng cướp gồm 50 tên
thường xuất hiện khi ngài giảng thuyết vào mùa Chay, nhưng ngài đã khiến cả
băng cướp này trở lại đạo. Ngày 1-8-1587, ngài đến truyền
giáo ở Pera, gần Constantinople (nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ). Ngài làm tuyên
úy cho 4.000 nô lệ Công giáo. Ngài muốn làm thay cho một nô lệ nhưng chính
quyền không chịu. Ngài gặp vua Hồi giáo (Sultan) nhiều lần để xin tự do tôn
giáo. Ngài bị bắt và bị kết án vì vi phạm tài sản hoàng gia. Ngài bị treo trên
khói lửa 3 ngày, rồi được tha. Mùa Thu năm 1589, ngài trở về Ý truyền giáo cho người nghèo và hòa giải các gia đình rối rắm nhiều năm
qua.
Ngài
qua đời ngày thứ Bảy, 4-2-1612, tại Umbria (Ý quốc), vì bệnh ung thư và biến
chứng sau phẫu thuật. Ngài được ĐGH Clêmentô XII tuyên chân phước ngày
22-6-1737, và được ĐGH Bênêđictô XIV tuyên thánh ngày 29-6-1746.
5/2 – THÁNH AGATHA, TRINH NỮ TỬ ĐẠO (+ 251?)
Cũng
như trường hợp thánh Anê, một trinh nữ tử đạo thời Giáo hội sơ khai, lịch sử
hầu như không có gì chắc chắn về vị thánh này ngoại trừ biết thánh nhân tử đạo
ở Sicily trong thời kỳ hoàng đế Decius bách hại năm 251.
Cũng
như Thánh Anê, Thánh Agatha bị bắt vì là Kitô hữu, bị hành hạ và bị giam trong
nhà thổ cho người ta hành hạ. Bà được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, sau
đó bà bị giết.
Thánh
Agatha được đặt làm thánh bổn mạng của vùng Palermo và Catania. Một năm sau khi
bà qua đời, núi lửa Etna được coi là có sự can thiệp của bà. Kết quả là người
ta tiếp tục cầu xin bà che chở khỏi bị lửa thiêu đốt.
6/2 – THÁNH PHAOLÔ MIKI và CÁC BẠN TỬ ĐẠO (+ 1597)
Thành
phố Nagasaki, Nhật Bản, quen với người Mỹ vì đó là thành phố bị thả trái bom
nguyên tử thứ hai, có hằng trăm ngàn người tử vong. Có 26 vị tử đạo của Nhật bị
đóng đinh trên một ngọn đồi, ngày nay gọi là Núi Thánh, nhìn ra thành phố
Nagasaki. Trong số các vị tử đạo có các linh mục, các tu sĩ Dòng Phanxicô, các
tu sĩ Dòng Tên, các giáo dân, các giáo lý viên, các bác sĩ, cả người già lẫn
trẻ em vô tội. Tất cả hiệp thông trong một niềm tin yêu vì Chúa Giêsu và Giáo
hội Công giáo.
Thánh
Phaolô Miki, tu sĩ Dòng Tên và dân bản xứ, được biết đến nhiều nhất trong số
các vị tử đạo của Nhật Bản. Khi bị treo trên thập giá, Thánh Phaolô Miki nói
với những người tụ họp quanh đó về việc thi hành án tử: “Lời kết án nói những người này từ Philippine đến Nhật, nhưng tôi không
từ nước khác đến. Tôi là người Nhật đích thực. Lý do duy nhất tôi bị án tử là
tôi đã dạy giáo lý của Đức Kitô. Chắc chắn tôi đã dạy giáo lý của Ngài. Tôi tạ
ơn Chúa vì lý do đó mà tôi phải chết. Tôi tin tôi đang nói thật trước khi tôi
chết. Tôi biết quý vị tin tôi, tôi muốn nói lại rằng hãy xin Đức Kitô giúp quý
vị vượt qua và được hạnh phúc. Tôi vâng lời Đức Kitô. Noi gương Ngài, tôi tha
thứ cho những người xử tử tôi. Tôi không ghét họ. Tôi cầu xin Chúa thương xót
họ, và tôi hy vọng máu của tôi sẽ đổ trên các bạn của tôi như mưa nguồn sinh
hoa kết trái.”
Khi các nhà truyền giáo trở lại Nhật Bản hồi thập niên 1860, họ không còn thấy dấu vết gì về Kitô giáo. Nhưng sau khi lập giáo đoàn, họ thấy có hằng ngàn tín hữu sống khắp Nagasaki vẫn âm thầm giữ đức tin. Thánh Phaolô Miki và các vị tử đạo được tuyên chân phước năm 1627, rồi được tôn phong hiển thánh năm 1862.
7/2 – THÁNH COLETTE, TRINH NỮ (1381-1447)
Colette không tìm sự nổi tiếng, nhưng vì làm theo Ý
Chúa mà bà được chú ý nhiều.Colette sinh tại Corbie (Pháp quốc). Lúc 21 tuổi,
bà giữ Luật Dòng Ba (Third Order Rule) và trở thành nữ ẩn sĩ (anchoress), chỉ
quanh quẩn trong bốn bức tường và đến nhà thờ.
Sau 4 năm cầu nguyện và đền tội, bà không ở trong
phòng nữa. Được ĐGH chuẩn y và khuyến khích, bà nhập Dòng Thánh Clara khó nghèo
và tái giới thiệu Tu Luật Thánh Clara ở 17 tu viện mà bà đã thành lập. Các nữ
tu nổi tiếng sống đức khó nghèo, họ từ khước bất kỳ thu nhập nào, và nổi tiếng
sống chay tịnh. Phong trào cải cách của Thánh Colette lan rộng tới các quốc gia
khác và vẫn phát triển tới ngày nay. Bà được phong hiển thánh năm 1807.
8/2 – THÁNH GIÔSÊPHINA BAKHITA, TRINH NỮ (khoảng 1868-1947)
Giôsêphina Bakhita là một nô lệ trong nhiều năm nhưng
tinh thần của bà luôn tự do và thanh thản. Giôsêphina sinh tại Olgossa (Darfur, Nam
Sudan), bị bắt cóc lúc 7 tuổi, bị bán làm nô lệ và được đặt tên là Bakhita – nghĩa
là “vận may.” Bakhita bị bán đi bán lại vài lần, cuối cùng là năm 1883, bà bị
bán cho Callisto Legnani, lãnh sự Ý ở Khartoum, Sudan.
Hai năm sau,Callisto đưa Bakhita sang Ý và giao cho
bạn ông ta là Augusto Michieli. Bakhita giữ con cho Mimmina Michieli, rồi
Bakhita cùng Mimmina đến Trường Tân Tòng (Institute of the Catechumens) ở
Venice, do các nữ tu Canossa điều hành. Khi Mimmina đang học, Bakhita cảm thấy
muốn theo đạo Công giáo. Và rồi Bakhita được rửa tội và thêm sức năm 1890, có
tên là Giôsêphina. Khi gia đình Michieli trở về từ Phi châu, họ muốn đem
Mimmina và Giôsêphina về với họ, Giôsêphina không chịu đi. Trong khi tìm cách
kiện tụng, các nữ tu Canossa và thị trưởng Venice can thiệp giúp Giôsêphina. Thẩm
phán kết luận rằng việc buôn bán nô lệ ở Ý là bất hợp pháp, và Giôsêphina được
tự do từ năm 1885.
Giôsêphina vào Dòng Thánh Mađalêna Canossa năm 1893,
ba năm sau bà được tuyên khấn. Năm 1902, bà được thuyên chuyển tới thành phố
Schio (Đông Bắc Verona), ở đây bà giúp nhà dòng nấu ăn, may vá, thêu thùa và đón
khách. Bà được trẻ em và dân địa phương quý mến. Có lần bà nói với họ: “Hãy sống tốt, hãy yêu mến Chúa, hãy cầu
nguyện cho những người chưa nhận biết Chúa. Được biết Chúa là một hồng ân cao
cả!”
Án phong chân phước cho bà bắt đầu mở từ năm 1959. Mãi
đến năm 1992, bà mới được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên chân phước, và được tuyên thánh vào năm 2000.
9/2 – THÁNH GIÊRÔNIMÔ ÊMILIANÔ, LINH MỤC (1481?-1537)
Giêrônimô là một binh sĩ bất cẩn và không có đạo ở
thành phố Venice, bị bắt trong một cuộc giao tranh nhỏ tại một thành phố ở tiền
đồn và bị xiềng nhốt trong ngục tối. Trong tù Giêrônimô có nhiều thời gian suy
nghĩ, dần dần ngài biết cầu nguyện. Khi thoát tù, ngài trở về Venice dạy học
cho mấy đứa cháu, và ngài bắt đầu được học làm linh mục.
Những năm sau khi thụ phong linh mục, nhiều sự kiện
khiến Giêrônimô phải quyết định sống đời sống mới. Bệnh dịch và nạn đói hoành
hành miền Bắc Ý. Ngài bắt đầu chăm sóc các bệnh nhân và cho người đói có thức
ăn bằng chính tiền riêng của mình. Trong khi phục vụ bệnh nhân và người nghèo,
ngài quyết định dành tất cả cho người khác, đặc biệt là cho các trẻ mồ côi.
Ngài thành lập ba cô nhi viện, một nhà mở cho những gái điếm hối lỗi và một
bệnh viện.
Khoảng năm 1532, ngài và hai linh mục khác thành lập
một hội dòng chuyên chăm sóc trẻ mồ côi và giáo dục giới trẻ. Ngài qua đời năm 1537 vì
lây bệnh khi chăm sóc bệnh nhân. Ngài được tuyên thánh năm 1767. Năm 1928, ĐGH
Piô Xl đặt ngài làm thánh bổn mạng các trẻ mồ côi và các trẻ bị bỏ rơi.
10/2 – THÁNH SCÔLASTICA, TRINH NỮ (480-542?)
Những đứa con song sinh thường có điểm chung về mối
quan tâm và tư tưởng với mức độ tương đương. Do đó, không lạ gì khi Scôlastica và
em trai song sinh là Bênêđictô đều lập dòng. Cùng sinh năm 480 trong một gia
đình giàu có, Scôlastica và Bênêđictô cùng được nuôi dưỡng cho đến khi Bênêđictô
đi Rôma để tiếp tục việc học. Người ta biết ít về cuộc đời hồi nhỏ của thánh Scôlastica.
Bà lập dòng nữ gần Monte Cassino ở Plombariola, cách dòng của cậu em 5 dặm.
Hai chị em song sinh thăm nhau mỗi năm một lần tại một
căn nhà ở nông trại vì Scôlastica không được phép vào tu viện nam. Họ dùng
những lần gặp nhau để bàn luận về các vấn đề tâm linh.Theo cuốn “Dialogues of
St. Gregory the Great” (Đối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả), hai chị em dành ngày
cuối cùng ở bên nhau để cầu nguyện và đàm đạo. Thánh Scôlastica cảm thấy mình
sắp chết nên xin em trai Bênêđictô ở lại với mình đến hôm sau. Thánh Bênêđictô
từ chối vì ngài không muốn ở ngoài nhà dòng vào ban đêm, như vậy là vi phạm Tu
Luật. Thánh Scôlastica xin Chúa cho sấm sét nổi lên để không cho Bênêđictô và
các tu sĩ về nhà dòng. Bênêđictô kêu lớn: “Xin
Chúa tha thứ cho chị. Chị làm gì vậy?” Thánh Scôlastica trả lời: “Chị xin cậu mà cậu từ chối. Chị xin với
Chúa và Ngài đã ban cho chị.”
Sáng hôm sau hai chị em chia tay sau thời gian đàm đạo
dài. Ba ngày sau, Thánh Bênêđictô đang cầu nguyện trong nhà dòng thì thấy linh
hồn chị bay về trời trong hình chim bồ câu trắng. Thánh Bênêđictô thông báo tin
chị mất cho các thầy, rồi sau đó an táng chị tại ngôi mộ mà Thánh Bênêđictô đã
chuẩn bị cho mình.
11/2 – ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Ngày 8-12-1854, Thánh GH Piô IX công bố Tín điều Mẹ Vô
Nhiễm Nguyên Tội qua Tông huấn “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ). Hơn
ba năm sau, ngày 11-2-1858, một phụ nữ trẻ đã hiện ra với Bernadette Soubirous.
Trong lần hiện ra ngày 25-3-1858, phụ nữ này đã xác định: “Ta là Đấng Vô Nhiễm.”
Bernadette là đứa trẻ ốm yếu, có cha mẹ nghèo, nhưng việc
sống đức tin của họ luôn sốt sắng. Trong khi bị thẩm vấn, Bernadette đã nói
những gì em thấy. Đó là “cái gì đó màu trắng có dáng một cô gái.” Bernadette đã
dùng từ “aquero”– đặc ngữ địa
phương nghĩa là “điều này.” Đó là “một phụ nữ khá trẻ có chuỗi Mân Côi trên tay.”
Chiếc áo trắng có vòng xanh bao quanh, đầu đội khăn trùm trắng. Mỗi bàn chân có
một bông hồng vàng. Bernadette cũng ấn tượng với sự thật là phụ nữ này không
dùng cách nói bình dân với đại từ “tu” (Pháp ngữ, ngôi thứ hai số ít), mà dùng cách
nói trang trọng với đại từ “vous” (Pháp
ngữ, ngôi thứ hai số nhiều, nhưng với ý nói số ít).
Trinh nữ khiêm nhường hiện ra với một cô gái khiêm
nhường và đối xử đàng hoàng. Qua cô gái khiêm nhường đó, Mẹ Maria đã tái sinh và
tiếp tục tái sinh đức tin của hằng triệu người khác. Người ta từ khắp nơi bắt
đầu tuôn đến Lộ Đức. Năm 1862, Giáo hội xác nhận tính đích thực của việc hiện
ra này và ban phép tôn kính Đức Mẹ Lộ Đức cấp giáo phận. Lễ Đức Mẹ Lộ Đức được
mừng kính trên toàn cầu từ năm 1907.
✽ Ký Ức Lộ Đức – https://tramthienthu.blogspot.com/2020/02/ky-uc-lo-uc.html
12/2 – THÁNH APOLLONIA, TỬ ĐẠO (+ 249)
Cuộc
bách hại Kitô giáo bắt đầu thời Alexandria,triều đại hoàng đế Philip. Nạn nhân
đầu tiên là một phụ nữ lớn tuổi ngoại giáo tên là Metrius, bị hành hạ và bị ném
đá đến chết. Nạn nhân thứ nhì tên là Quinta, một Kitô hữu từ chối tôn thờ các
ngẫu tượng, lời bà nói làm những người ngoại giáo tức điên lên, thế là bà bị đánh
đập và ném đá.
Trong
khi đa số các Kitô hữu trốn khỏi thành phố, bỏ lại tất cả tài sản, một nữ trợ
tế bị bắt tên là Apollonia. Đám đông đánh đập bà, đá bà gãy cả răng. Họ đốt
đống lửa và dọa ném bà vào nếu không chịu nguyền rủa Thiên Chúa. Bà xin họ chờ
một lát, rồi bà hành động như thể bà đang cân nhắc yêu cầu của họ. Bà tự ý nhảy
vào lửa chịu tử đạo.
Có
nhiều nhà thờ và bàn thờ dâng kính Thánh Apollonia. Bà được đặt làm bổn mạng
các nha sĩ. Những người đau răng và những người bị các bệnh về răng thường cầu
nguyện với bà. Bà được vẽ với tay cầm chiếc kìm nhổ răng hoặc với một chiếc
răng vàng đeo ở cổ. Thánh Augustinô giải thích việc tử đạo tự nguyện của thánh Apollonia là một linh hứng đặc biệt của
Chúa Thánh Thần, vì không ai được phép tự gây ra cái chết.
13/2 – THÁNH GILES MARIA GIUSE (1729-1812)
Năm
hoàng đế Napoleon Bonaparte đưa quân sang Nga, Giles Maria Giuse nhập Dòng Phanxicô
ở thành Naples (Ý quốc).
Giles
Francesco sinh ngày 16-12-1729 tại Taranto (Apulia, Ý quốc), trong một gia đình
nghèo, mồ côi cha lúc bà 18 tuổi nên Giles phải lo cho gia đình. Ngài nhập Dòng
Anh Em Hèn Mọn (Friars Minor) tại Galatone năm 1754. Suốt 53 năm phục vụ tại
Nhà Tế Bần Thánh Paschal ở Naples với nhiều công việc như nấu ăn, khuân vác và
thường xuyên nhất là hành khất cho cộng đoàn.
“Hãy
yêu mến Chúa” là lời đặc biệt của Giles nói với mọi người khi đi xin thức ăn về
cho các tu sĩ và chia sẻ lòng đại lượng với người nghèo – an ủi người gặp khó
khăn và thúc giục mọi người sám hối. Lòng bác ái của ngài thể hiện trên các
đường phố ở Naples, phát sinh từ lời cầu nguyện và nuôi dưỡng đời sống cộng
đồng của các tu sĩ. Những người mà Giles gặp trên đường gọi ngài là “Người An
Ủi Thành Naples.” Ngài qua đời ngày 7-2-1812 tại Naples, được ĐGH Leo XIII tuyên chân
phước năm 1888, và được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên thánh năm 1996. Trong
bài giảng lễ tuyên thánh, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Hành trình tâm linh của thánh Giles phản ánh sự khiêm nhường của mầu
nhiệm Nhập Thể và sự biếu không của Thánh Thể.”
14/2 – THÁNH CYRILÔ, ĐAN SĨ (827-884), và THÁNH MÊTHÔĐIÔ, GIÁM MỤC (825-869)
Hai anh em Cyrilô sinh năm 827 và Mêthôđiô sinh năm
825 tại Thessalonica, Đông Bắc Hy lạp. Cha của các ngài là một sĩ quan ở Hy
lạp, nơi có nhiều người Slavs sinh sống, thế nên hai anh em này trở nên nhà
truyền giáo, thầy dạy và vị bảo trợ của dân Slavs. Sau khi học hành giỏi giang,
Cyrilô từ chối chức thống đốc khi em trai ngài chấp nhận là những người nói
tiếng Slavs. Cyrilôrút về tu viện, nơi em trai Mêthôđiô làm tu sĩ sau vài năm
làm thống đốc. Trước đó, Cyrilô được gọi là Constantine đến khi làm tu sĩ không
lâu sau khi cha mất.
Sự thay đổi “định mệnh” xảy ra khi Công tước Moravia (ngày
nay là Cộng hòa Czech) yêu cầu Hoàng đế Đông phương Michael cho độc lập về
chính trị, tách khỏi quyền cai trị của Đức và tự trị Giáo hội vì đã có giáo sĩ
và phụng vụ riêng. Cyrilô và Mêthôđiô hiểu sứ vụ truyền giáo của mình.
Công việc đầu tiên của Thánh Cyrilô là sáng tạo bảng
mẫu tự, vẫn được dùng trong một số phụng vụ Đông phương. Những người theo ngài
có thể thành lập bảng mẫu tự Cyrilô (Cyrillic alphabet), chẳng hạn trong tiếng
Nga hiện đại,từ chữ hoa Hy Lạp. Họ cùng dịch Phúc Âm, Thánh Thi, các Thư của Thánh
Phaolô và sách phụng vụ sang tiếng Slavs, lập nghi thức Phụng vụ Slavs, lúc đó
khác nhiều.
Họ dùng thổ ngữ khi thuyết giảng nên dẫn đến đối lập
trong giới giáo sĩ Đức. Đức giám mục không chịu phong chức giám mục và linh mục
cho người Slavs. Thánh Cyrilô buộc phải đi Rôma. Trên đường đến Rôma, ngài và Thánh
Mêthôđiô vui mừng khi thấy sách phụng vụ mới của hai anh em được ĐGH Adrianô II
phê chuẩn. Thánh Cyrilô qua đời tại Rôma.
Thánh Mêthôđiô tiếp tục sứ vụ trong 16 năm nữa. Ngài
là khâm sứ tòa thánh (papal legate) cho dân tộc Slavs, được phong chức giám mục
và coi sóc một giáo phận mà nay thuộc Cộng hòa Czech. Khi nhiều vùng trong lãnh
địa bị mất quyền hạn, các giám mục Bavaria phản hồi bằng cách chống lại thánh Mêthôđiô.
Cuối cùng, Hoàng đế Louis người Đức bắt Thánh Mêthôđiô đi đày 3 năm, nhưng được
tự do nhờ ĐGH Gioan VIII bảo lãnh.
Giáo sĩ người Frankish tiếp tục cáo trạng, Thánh Mêthôđiô
phải đi Rôma để không bị kết tội dị giáo và bảo vệ việc dùng phụng vụ Slavs. Sau
đó, ngài được minh oan.
Thời kỳ hoạt động sôi nổi của Thánh Mêthôđiô là dịch
toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Slavs trong vòng 8 tháng. Ngài qua đời vào thứ Ba
Tuần Thánh, các đệ tử vây quanh, và ngài được an táng tại nhà thờ chính tòa.
Sau khi ngài mất vẫn có những người phản đối, rồi công
việc của hai anh em ở Moravia đến hồi kết thúc và các đệ tử của họ tản mác. Nhưng
có hiệu quả lợi ích về việc truyền bá các hoạt động tâm linh, phụng vụ và văn
hóa của hai anh em sang Bulgaria, Bohemia và Nam Ba Lan. Hai anh em là bổn mạng
của Moravia, được tôn kính đặc biệt trong cộng đồng Công giáo ở Cộng hòa Czech,
Slovaks, Croatia, kể cả trong Chính Thống giáo ở Serbia và Bulgaria.Thánh Cyrilô
và Mêthôđiô là Tông đồ và là cha đẻ của văn chương Slavs, đồng thời là người
bảo vệ sự hiệp nhất lâu dài giữa Đông phương và Tây phương. Năm 1980, ĐGH Gioan
Phaolô II tôn phong các ngài làm thánh bổn mạng Âu châu (cùng với Thánh Bênêđictô).
15/2 – THÁNH CLAUDE LA COLOMBIÈRE, LINH MỤC (1641-1682)
Đây là ngày đặc biệt của Dòng Tên (S.J. – Society of
Jesus), ngày kính một trong các thánh riêng của Dòng. Đây cũng là ngày đặc biệt
đối với những người có lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu mà Thánh Claude la
Colombière truyền bá, cùng với người bạn tâm linh là Thánh Margaret Maria
Alacoque.
Ngài sinh ngày 2-2-1641 tại St. Symphorien d'Ozon ở
Dauphine, là con thứ ba trong một gia đình quý tộc, cha là Bertrand La
Colombière và mẹ là Margaret Coindat. Rồi gia đình chuyển đến Vienne, tại đây
ngài được đi học. Sau đó, ngài được học hùng biện và triết học ở Lyon (Pháp
quốc). Lúc 17 tuổi, ngài là tập sinh Dòng Tên tại Avignon, và được tiên khấn
năm 1660. Học xong triết học, ngài dạy văn phạm và văn chương 5 năm. Năm 1666,
ngài học thần học tại Paris. Rồi ngài dạy cho các con của vua Louis XIV, ngài còn
vừa giảng phòng vừa làm tuyên úy cho vài Hội dòng Đức Mẹ Maria.
Sự nhấn mạnh vào Tình Yêu Chúa là “thuốc giải độc” đối
với sự tuân thủ luân lý nghiêm ngặt của phái Gian-xen [*] phổ biến vào thời đó.
Ngài có tài diễn thuyết từ trước khi thụ phong linh mục ngày 2-2-1675. Hai
tháng sau, ngài được bầu làm bề trên một tu viện ở Burgundy. Ở đó, ngài đã gặp Thánh
Margaret Maria Alacoque. Nhiều năm sau, ngài là linh mục giải tội cho thánh nữ.
Rồi ngài được sai tới Anh quốc làm linh mục giải tội cho nữ Công tước York.
Ngài rao giảng vừa bằng lời nói vừa bằng gương sống thánh thiện, và ngài đã
khiến nhiều người Tin Lành trở lại Công giáo.
Cuối năm 1678, ngài bị bắt vì bị vu khống có dính líu
nhóm Titus Oates – nhóm mưu đồ theo chủ nghĩa giáo hoàng (papist plot). Hai
ngày sau, ngài bị đưa tới khám King's Bench theo lệnh Hoàng gia Anh, cảnh tù
khắc nghiệt khiến sức khỏe ngài giảm sút, dù chỉ 3 tuần, trước khi bị trục xuất
về Pháp. Mùa hè năm 1681, ngài trở lại Paray trong tình trạng yếu sức. Ngày
15-2-1682, Chúa Nhật I mùa Chay, ngài bị xuất huyết nặng và qua đời.
Ngày 16-6-1929, ngài được ĐGH Piô XI tuyên chân phước.
Năm 1992, ngài được ĐGH Gioan Phaolô II phong hiển thánh.
-----------------------
[*] Jansenism: Thuyết của thần học gia Công giáo
Cornelis Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân
lý (moral determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh
sự tiền định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không
thể tốt lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết
cho mọi người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị
những người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây
phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh
Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism
(phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh
Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công
giáo La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The
Augustinus của ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông
đã lập cơ sở tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung
thành của Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657).
Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh
bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt đầu lập Giáo hội Jansen năm
1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20. Thuyết của thần học gia Công giáo Cornelis
Jansen (1585–1638), khoảng 1656-1657, dựa trên thuyết tiền định luân lý (moral
determinism). Các nguyên tắc thần học của Cornelis Jansen nhấn mạnh sự tiền
định, phủ nhận ý chí tự do, cho rằng bản chất con người hư hỏng, không thể tốt
lành, còn Chúa Kitô chỉ chết cho những người được chọn chứ không chết cho mọi
người. Giáo hội Công giáo kết án thuyết này là lạc giáo. Thuyết này bị những
người cải cách trong giới giáo sĩ, tu sĩ và học giả Công giáo Âu châu Tây
phương phản đối, và bị kết án là tà thuyết. Bị ảnh hưởng các tác phẩm của thánh
Augustinô, nhất là sự tấn công của thánh Augustinô đối với thuyết Pelagianism
(phủ nhận tội tổ tông) và thuyết ý chí tự do, Jansen theo thuyết của thánh
Augustinô về sự tiền định và sự cần thiết của Ơn Chúa, một lập trường bị Công giáo
La Mã coi là gần với thuyết của Calvin, đã cấm lưu hành cuốn The Augustinus của
ông năm 1642. Sau khi Jansen chết năm 1638, những người theo ông đã lập cơ sở
tại tu viện ở Port-Royal, Pháp. Blaise Pascal, một đệ tử trung thành của
Jansen, đã bảo vệ các giáo huấn của họ trong Provincial Letters (1656–1657).
Năm 1709, vua Louis XIV ra lệnh bãi bỏ tu viện này. Những người theo Jansen bắt
đầu lập Giáo hội Jansen năm 1723 và tồn tại tới cuối thế kỷ 20.
16/2 – THÁNH GILBERT SEMPRINGHAM, LINH MỤC (khoảng 1083-1189)
Gilbert sinh tại Sempringham (Anh quốc)trong một gia
đình giàu có, nhưng ngài lại theo con đường khác. Ngài được gởi sang Pháp học,
còn ngài lại muốn vào chủng viện.
Ngài trở về Anh và được thừa hưởng gia sản của người
cha, nhưng ngài không muốn sống sung túc. Ngài phân phát của cải cho người
nghèo. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được phái về coi sóc một giáo xứ ở
Sempringham. Trong giáo xứ có 7 phụ nữ trẻ muốn đi tu, ngài cho xây một ngôi
nhà kế nhà thờ cho họ sống đời tu. Sau đó có thêm nhiều thanh niên và thanh nữ
gia nhập. Cuối cùng cộng đoàn này gọi là Dòng Gilbert (Gilbertines), dù ngài
muốn gọi là Dòng Xitô (Cistercians) hoặc một dòng nào đó đang hoạt động và sẽ
viết tu luật cho một dòng mới. Dòng Gilbert là dòng duy nhất có nguồn gốc ở Anh
được thành lập từ thời Trung cổ và phát triển. Nhưng Dòng Gilbert đã không còn
từ khi vua Henry VIII cấm tất cả các tu viện Công giáo.
Sau nhiều năm, một thói quen đặc biệt lan truyền ở các
nhà dòng gọi là “Chiếc Đĩa của Chúa Giêsu” (the plate of the Lord Jesus). Khẩu
phần ngon nhất của bữa tối được đặt trên một chiếc đĩa đặc biệt và được chia sẻ
với người nghèo, phản ánh mối quan tâm cả đời của Thánh Gilbert là chia sẻ với những
người kém may mắn.
Thánh Gilbert sống giản dị, ăn ít và dành nhiều thời
gian ban đêm để cầu nguyện. Dù sống nghiêm ngặt nhưng ngài vẫn sống thọ hơn 100
tuổi.
17/2 – BẢY THÁNH LẬP DÒNG TÔI TỚ ĐỨC MẸ (thế kỷ 13)
Bạn có thể tưởng tượng được bảy người đàn ông ở Boston
và Denver cùng nhau bỏ gia đình,bỏ sự nghiệp, rồi cùng nhau sống độc thân vì
Chúa? Nhưng đó là điều đã xảy ra tại thành phố Florence phồn thịnh hồi giữa thế
kỷ XIII. Thành phố này bị xáo trộn vì chính trị và dị giáo Cathari. Luân lý bị
coi thường và tôn giáo coi như vô nghĩa.
Năm 1240, bảy thanh niên của thành phố Florence quyết định
rời thành phố để sống độc thân chuyên cần cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa. Khó
khăn đầu tiên của họ là giúp cho gia đình sinh sống, vì bốn người đã kết hôn.
Mục đích của họ là sống cầu nguyện và sám hối, nhưng họ thấy bị phiền vì nhiều
người từ Florence thường xuyên đến. Thế là họ rút vô miền sơn cước Monte
Senario.
Năm 1244, theo hướng dẫn của Thánh Phêrô Vêrôna, dòng
Đa Minh, họ sống theo cách sống của dòng Đa Minh, theo tu luật Thánh Augustinô
và lấy tên dòng là Tôi tớ Đức Mẹ (Servants of Mary). Dòng mới này giống như các
tu sĩ khất thực (mendicant friars), khác với các dòng trước đó.
Năm 1852, các tu sĩ dòng này từ Úc tới Hoa Kỳ và ở lại
New York, sau đó tới Philadelphia. Hai tỉnh dòng ở Hoa Kỳ phát triển từ tu sở
của Lm Austin Morini ở Wisconsin năm 1870. Các tu sĩ kết hợp đời sống tu với
việc hoạt động tông đồ. Trong tu viện, họ cầu nguyện, lao động và thinh lặng,
kết hợp với việc tông đồ như giúp xứ, dạy học, dạy giáo lý và các hoạt động
khác.
18/2 – CHÂN PHƯỚC GIOAN FIESOLE, LINH MỤC (khoảng 1400-1455)
Chân phước Gioan Fiesole là bổn mạng các họa sĩ Kitô
giáo. Ngài sinh khoảng năm 1400 tại một ngôi làng nhìn trên thành phố Florence.
Ngài học vẽ khi còn nhỏ và được coi là họa sĩ bậc thầy. Ngài nhập dòng Đa Minh lúc
khoảng 20 tuổi, đổi tên là Fra Giovanni. Rồi ngài nổi danh với tên Fra
Angelico, có thể đó là cách tỏ lòng kính trọng phẩm chất siêu nhân hoặc tính
cách sùng kính trong công việc của ngài.
Ngài tiếp tục học và hoàn thành khoa hội họa của mình,
với những đường nét phóng khoáng, màu sắc linh động và các hình ảnh phong phú
sống động như thật. Michelangelo có lần đã nói về Fra Angelico: “Người ta phải tin rằng tu sĩ tốt lành này
đã thấy thiên đàng và được phép chọn người mẫu ở đó.” Với Fra Angelico, cái
gì cũng trở thành đề tài, ngài tìm cách phát huy cảm xúc tôn giáo được phản ánh
trong các bức họa của ngài. Trong số các bức họa nổi tiếng của ngài là bức họa Truyền
Tin (Annunciation) và Tháo Đanh (Descent from the Cross), kể cả các bích họa trong
tu viện tại San Marco ở Florence.
Ngài còn giữ các chức vụ cao trong dòng Đa Minh. Khi
ĐGH Eugenius hỏi ý kiến ngài về việc phong chức tổng giám mục Florence, ngài đã
từ chối và ngài nói chỉ thích sống giản dị. Ngài qua đời năm 1455.
19/2 – THÁNH CONRAD PIACENZA (1290-1350)
Conrad
Piacenza sinh trưởng trong một gia đình quý tộc tại Piacenza, thuộc Bắc Ý.
Conrad kết hôn với Euphrosyne, con gái một nhà quý tộc. Một hôm, trong lúc đi
săn, Conrad bảo những người tùy tùng đốt một bụi cây để con thú chạy ra. Lửa
cháy đến cánh đồng và khu rừng gần đó. Conrad chạy trốn. Một nông dân vô tội bị
bắt vào tù, bị hành hạ và phải nhận tội, rồi người này bị kết án tử hình. Thấy
vậy, Conrad đầu thú để cứu người kia và chịu bồi thường thiệt hại.
Sau
sự cố này, Conrad và vợ đồng ý chia tay: Vợ vô dòng Thánh Clara, chồng sống ẩn
tu theo Luật Dòng Ba. Tuy nhiên, danh tiếng ngài thánh thiện lan truyền mau
chóng. Thấy nhiều người đến làm rộn cuộc sống ẩn dật, ngài đến một nơi xa hơn,
là vùng Sicily, và tại đây ngài sống ẩn tu 36 năm, chuyên chăm cầu nguyện cho
mình và thế giới.
Sự
cầu nguyện và hãm mình của ngài là tiếng đáp trả những cơn cám dỗ cản bước
ngài. Ngài chết khi đang quỳ cầu nguyện trước Thánh giá. Ngài được tuyên thánh
năm 1625.
20/2 – CÁC THÁNH GIAXINTA (1910-1920) và PHANXICÔ MARTÔ (1908-1919)
Trong
thời gian từ 13-5 đến 13-10-1917, ba trẻ chăn chiên ở Aljustrel, Bồ Đào Nha, đã
thấy Đức Mẹ hiện ra tại Cova da Iria, gần Fátima, một thành phố cách Lisbon 110
dặm về phía Bắc. Ba trẻ chăn chiên đó là Giaxinta, Phanxicô Martô và Luxia. Lúc
đó, Âu châu đang chiến tranh khốc liệt. Bồ Đào Nha ở trong tình trạng hỗn loạn
chính trị, chế độ quân chủ (monarchy) bị lật đổ năm 1910. Chính phủ giải tán
các tổ chức tôn giáo ngay sau đó.
Trong
lần hiện ra đầu tiên, Đức Mẹ yêu cầu các em trở lại chỗ đó vào ngày 13 trong vòng
6 tháng kế tiếp. Đức Mẹ còn yêu cầu các em lần chuỗi Mân Côi để “cầu cho hòa bình
cho thế giới và chấm dứt chiến tranh.” Các em phải cầu cho những người tội lỗi
và cho nước Nga trở lại. Nga hoàng Nicholas II đã bị lật đổ và không lâu sau là
chế độ cộng sản. Có đến 90.000 người đã tụ họp trong lần Đức Mẹ hiện ra lần
cuối cùng vào ngày 13-10-1917.
Chưa
đầy 2 năm sau, Phanxicô qua đời vì bệnh cúm (influenza). Phanxicô được an táng
tại nghĩa trang giáo xứ và rồi được cải táng về Thánh Đường Fátima năm 1952. Giaxinta
cũng qua đời vì bệnh cúm tại Lisbon. Giaxinta dâng mọi đau khổ của mình để cầu
cho các tội nhân biết ăn năn trở lại, cho hòa bình thế giới và Đức Thánh Cha. Giaxinta
được cải táng về Thánh Đường Fátima năm 1951. Chị họ của Giaxinta và Phanxicô
là Luxia (Lúcia dos Santos) trở thành nữ tu Dòng Kín Camêlô. Luxia vẫn sống khi
Phanxicô và Giaxinta được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên chân phước năm 2000. Nữ tu
Luxia qua đời hồi tháng 2-2005,thọ 97 tuổi. Hằng năm có tới 20 triệu người đến
viếng Đền Thờ Đức Mẹ Fátima. Phanxicô và Giaxinta được ĐGH Phanxicô tuyên thánh
ngày 13-5-2017.
21/2 – THÁNH PHÊRÔ ĐAMIANÔ, GIÁM MỤC TIẾN SĨ (1007-1072)
Có
thể vì ngài mồ côi và bị anh em đối xử tồi tệ mà Phêrô Đamianô rất tốt với
người nghèo. Chỉ là “chuyện nhỏ” khi ngài thường có một vài người nghèo đồng
bàn ăn và ngài thích đích thân hảo tâm với những người nghèo.
Phêrô
Đamianô thoát nghèo và làm ngơ với người anh khi người anh này, là linh mục hạt
trưởng giáo hạt Ravenna, muốn “che chở” cho ngài, dù người anh này đã gởi ngài
đi học và trở thành giáo sư.
Ngài
luôn nghiêm khắc với chính mình, mặc áo nhặm, ăn chay và cầu nguyện nhiều. Ngài
quyết định bỏ dạy học và dành thời gian cầu nguyện với các tu sĩ Dòng Benêđíctô
cải cách của Thánh Rômualđô tại Fonte Avellana. Ngài cầu nguyện nhiều và ngủ ít
đến nỗi ngài bị chứng mất ngủ, rồi ngài thấy phải cẩn thận và quan tâm sức khỏe.
Khi ngài không cầu nguyện, ngài nghiên cứu Kinh Thánh.
Tu
viện trưởng truyền rằng khi bề trên qua đời thì ngài phải kế vị. Và rồi tu viện
trưởng Phêrô Đamianô đã thành lập thêm 5 đan viện khác. Ngài khuyến khích các
đan sĩ sống cầu nguyện và cô tịch, ngài không muốn gì khác cho mình. Tòa Thánh
kêu gọi ngài làm người hòa giải giữa hai đan viện có mâu thuẫn hoặc chính phủ
bất đồng ý kiến với Rôma.
Cuối
cùng, ĐGH Stephanô IX phong ngài làm Hồng y Giám mục GP Ostia. Ngài làm việc
cật lực để loại bỏ việc buôn chức bán quyền trong Giáo hội, ngài khuyến khích
các linh mục tuân thủ luật độc thân và thúc đẩy các linh mục giáo phận sống
đoàn kết và duy trì việc cầu nguyện. Ngài muốn duy trì quy luật ban đầu trong
giới linh mục triều và linh mục dòng, tránh những chuyến đi không cần thiết,
sống thoải mái và vi phạm đức khó nghèo. Ngài đã viết thư cho giám mục giáo
phận Besancon để than phiền rằng giáo luật đã bị áp dụng sai khi hát thánh vịnh
trong kinh nhật tụng (Divine Office). Ngài viết nhiều thư, hiện còn khoảng 170
thư. Ngoài ra còn có 53 bài giảng của ngài và 7 bản tiểu sử mà ngài đã viết.
Ngài thích những tấm gương và truyện thật hơn lý thuyết. Nghi thức Phụng vụ
bằng tiếng Latin mà ngài viết là chứng cớ về tài năng của ngài.
Ngài
thường xuyên xin nghỉ hưu, cuối cùng được ĐGH Alexander II chấp thuận. Ngài vui
mừng vì lại được làm đan sĩ, nhưng ngài vẫn được mời làm khâm sứ tại Ravenna.
Sau khi mãn nhiệm trở về nhà dòng, ngài bị sốt cao. Ngày 22-2-1072, ngài qua
đời khi các tu sĩ đang vây quanh ngài để đọc kinh nhật tụng. Năm 1828 ngài được
tôn phong là Tiến sĩ Giáo hội.
22/2 – TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ
Lễ
này kỷ niệm việc Chúa Giêsu chọn Thánh Phêrô làm đầu Giáo hội.
Thiên
thần nói với Maria Madalêna:“Ngài đã sống
lại! Hãy đi nói với các tông đồ và Phêrô.” Thánh sử Gioan kể lại rằng khi ngài
và thánh Phêrô tới mộ, người trẻ đến trước người già nên đứng đợi. Phêrô vào mộ,
thấy khăn liệm trên đất, khăn trùm cuộn lại gọn gàng. Gioan thấy và tin. Nhưng
thánh Gioan nói thêm: “...Hai ông chưa
hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20:9) Họ trở về. Tin Mừng lan
truyền, điều không thể trở nên có thể. Chúa Giêsu hiện ra với họ khi họ đang sợ
hãi chờ đợi trong căn phòng được khóa chặt. “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
và nói: Bình an cho anh em,” (Ga 20:21b) và họ vui mừng.
Lễ
Hiện xuống hoàn tất kinh nghiệm của Thánh Phêrô về Đức Kitô phục sinh: “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ
bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv
2:4a)
Chỉ
khi đó Thánh Phêrô mới hoàn tất trọng trách Chúa Giêsu đã trao: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất
lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững
mạnh.” (Lc 22:32) Ngay lúc đó ngài trở thành phát ngôn viên cho Nhóm Mười
Hai về kinh nghiệm Thánh Thần – trước mặt chính quyền đời, những người muốn cấm
các tông đồ rao giảng, trước công hội Giêrusalem, đối với cộng đoàn Ananias và
Sapphira đang gặp rắc rối. Ngài là người đầu tiên rao giảng Phúc Âm cho dân
ngoại. Khả năng chữa bệnh của Chúa Giêsu nơi ngài được minh chứng: làm cho
Tabitha sống lại, chữa lành người ăn xin bị què. Người ta đem các bệnh nhân ra
đường khi Thánh Phêrô đi ngang qua với hy vọng bóng ngài sẽ lướt trên các bệnh
nhân và được khỏi.
Ngay
cả thánh nhân cũng phải trải qua khó khăn trong đời sống Kitô giáo. Khi Thánh Phêrô
không ăn uống với các tân tòng vì ngài không muốn làm tổn thương các Kitô hữu
người Do thái, Thánh Phaolô nói: “Tôi đã cự
lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Nhưng khi tôi thấy các
ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha
trước mặt mọi người: “Nếu ông là người Do Thái mà còn sống như người dân ngoại,
chứ không như người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự
như người Do Thái?” (Gl 2:11b, 14a)
Cuối
Phúc Âm theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô:“Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và
đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt
lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga 21:18). Lời Chúa Giêsu nói cho
thấy cách chết của Thánh Phêrô. Trên Đồi Vatican ở Rôma, thời Nero, Thánh Phêrô
đã làm vinh danh Chúa bằng cái chết: bị đóng đinh ngược.
23/2 – THÁNH PÔLYCARP, GIÁM MỤC TỬ ĐẠO (+ 156)
Pôlycarp, giám mục giáo phận Smyrna (nay là Izmir, Thổ
nhĩ kỳ), môn đệ của Thánh Gioan tông đồ và người bạn là Thánh Inhaxiô thành
Antiôkia,là người được kính trọng trong nửa đầu của thế kỷ II.
Thánh Inhaxiô, trên đường tới Rôma chịu tử đạo, đã ghé
thăm Pôlycarp tại Smyrna, và sau đó tại thành Troas,THÁNH Inhaxiô đã viết thư
riêng cho Pôlycarp. Các giáo hội Tiểu Á nhận ra khả năng lãnh đạo của thánh Pôlycarp
nên chọn ngài làm đại diện để thảo luận với ĐGH Anicêtô vào ngày lễ Phục Sinh ở
Rôma – một kiểu khá tranh luận trong thời Giáo hội sơ khai.Chỉ còn một trong
nhiều lá thư của Thánh Pôlycarp được lưu giữ, đó là thư ngài viết cho giáo đoàn
Philippi, Maxêđônia.
Lúc 86 tuổi, Thánh Pôlycarp bị thiêu sống tại Smyrna. Lửa
không thiêu cháy ngài, cuối cùng ngài bị đâm chết. Viên sĩ quan chỉ huy ra lệnh
thiêu xác thánh nhân. Các chứng tích về cuộc tử đạo của Thánh Pôlycarp còn được
lưu giữ, rất đáng tin cậy về cái chết của một nhân chứng Kitô hữu.
24/2 – CHÂN PHƯỚC LUCA BELLUDI (1200-1285)
Năm
1220, Thánh Antôn đang giảng đạo cho cư dân ở Padua thì chàng trai Luca Belludi
đến gặp ngài và xin nhận y phục của những người theo Thánh Phanxicô. Thánh Antôn
thấy Luca có tài và có giáo dục nên giới thiệu với thánh Phanxicô. Luca được Thánh
Phanxicô nhận vào Dòng Phanxicô.
Lúc
20 tuổi, Luca theo Thánh Antôn đi giảng đạo và được bổ nhiệm làm vệ sĩ của các
tu sĩ Dòng Anh Em Hèn Mọn (Friars Minor) ở thành phố Padua. Năm 1239,thành phố
rơi vào tay kẻ thù. Giới quý tộc bị giết chết, thị trưởng và hội đồng thành phố
bị giải tán, trường đại học Padua dần dần đóng cửa và nhà thờ dâng kính thánh
Antôn bị bỏ dở. Luca cũng bị đi đày nhưng đã bí mật trở lại. Ban đêm, Luca và
vệ sĩ mới có thể đến viếng mộ thánh Antôn để cầu nguyện và xin trợ giúp. Một
đêm nọ, có tiếng nói vọng lên từ mộ xác định rằng thành phố sẽ mau chóng được
giao lại từ tay bạo chúa.
Biết
được sứ điệp tiên tri, người ta chọn Luca làm trưởng thành phố và xúc tiến việc
hoàn tất đại giáo đường dâng kính Thánh Antôn, thầy dạy của mình. Cũng như
Thánh Antôn, Thánh Luca Belludi đã lập 5 tu viện và làm nhiều phép lạ. Ngài qua
đời và được an táng tại đại giáo đường đó, ngài vẫn được tôn kính cho tới ngày
nay.
25/2 – CHÂN PHƯỚC SÊBASTIANÔ APARICIÔ (1502-1600)
Những con đường và những cây cầu của CP Sêbastianô nối
với nhiều vùng sâu vùng xa. Cây cầu cuối cùng của ngài là để giúp nam giới và
nữ giới nhận biết phẩm giá và số mệnh của mình mà Thiên Chúa đã ban.
Cha mẹ của Sêbastianô là những nông dân người Tây Ban Nha.
Lúc 31 tuổi, ngài đến Mexico làm nông nghiệp. Ngài làm nhiều con đường giúp cho
việc thương mại được dễ dàng. Con đường dài 466 dặm từ thành phố Mexico tới
Zacatecas mất 10 năm mới hoàn tất và phải thương lượng với nhiều người dọc hai
bên đường.
Thời đó, Sêbastianô là một nông dân giàu có. Có thể sự
thúc đẩy của người vợ là tài sản lớn của ngài. Khi người vợ đầu tiên qua đời, ngài
bước vào cuộc hôn nhân trong trắng (virginal marriage) lúc ngài 60 tuổi. Người
vợ thứ hai cũng chết sớm.
Lúc 72 tuổi, Sêbastianô phân phát của cải cho người
nghèo rồi vào Dòng Phanxicô. Ngài ở một tu viện tại Puebla de Los Angeles, phía
Nam thành phố Mexico, Sêbastianô đi khất thực suốt 25 năm. Ngài sống bác ái nên
người ta đặt cho ngài biệt danh là “Thiên Thần của Mexico.” Sêbastianô được tuyên chân phước năm 1787 và được coi là bổn mạng của những người đi du lịch.
26/2 – THÁNH PORPHYRY GAZA, GIÁM MỤC (353-421)
Chúng
ta lật lại lịch sử để biết một chút về một thánh nhân không mấy quen với đa số
những người ở Tây phương nhưng được các Giáo hội Chính Thống Nga và Hy Lạp tôn
kính. Ngài sinh ở gần Hy Lạp hồi giữa thế kỷ thứ IV, nổi tiếng về lòng quảng
đại với người nghèo và sống khổ hạnh. Các vùng hoang địa và hang động đã là nơi
ở của ngài một thời gian. Lúc 40 tuổi, ngài ở Giêrusalem và được thu phong linh
mục.
Không
biết những gì chúng ta biết được có đúng hay không: Ngài được bổ nhiệm làm giám
mục giáo phận Gaza, ngài không muốn nhưng ngài bị bắt cóc (với sự hỗ trợ của vị
giám mục khác) và bị bắt ép tấn phong giám mục. Không lâu sau, ngài bị dân địa
phương kết tội gây nạn hạn hán. Nhưng không lâu sau đó lại có mưa, dân chúng
tin ngài và dần dần bớt căng thẳng.
Tiếp
13 năm sau, Porphyry làm việc không biết mệt mỏi vì mọi người, hướng dẫn họ và
làm họ trở lại đạo, dù vẫn có nhiều người ngoại giáo phản đối suốt đời ngài.
27/2 – THÁNH GABRIEL ĐỨC MẸ SẦU BI, TU SĨ (1838-1862)
Sinh tại Ý trong một gia đình nhiều người và có tên thánh rửa tội là Phanxicô, ngài mồ côi mẹ khi mới 4 tuổi. Ngài được học với các tu sĩ Dòng Tên, hai lần khỏi bệnh nặng, và tin Chúa gọi mình sống đời tu trì. Ngài muốn vào dòng Tên nhưng bị từ chối, có lẽ do tuổi tác, vì chưa đủ 17 tuổi.
Sau khi người chị chết vì
bệnh dịch tả, ý muốn đi tu của ngài càng mạnh hơn và ngài được dòng Chúa Chịu
Nạn (Passionists) chấp nhận. Khi vào nhà tập, ngài có tên dòng là Gabriel Đức
Mẹ Sầu Bi.
Gabriel
mau chóng thành công trong nỗ lực sống đức tin trong từng việc nhỏ. Ngài có
tinh thần cầu nguyện, yêu thương người nghèo, cân nhắc cảm xúc của người khác, tuân
thủ luật dòng và hành xác, luôn vâng lời ý khôn ngoan của bề trên. Những điều
đó khiến mọi người có ấn tượng mạnh.
Bề
trên muốn Gabriel làm linh mục, nhưng chỉ mới tu 4 năm, triệu chứng bệnh lao
xuất hiện. Luôn vâng lời, ngài chịu đựng đau đớn, nhưng không đòi hỏi được quan
tâm đặc biệt. Ngài qua đời ngày 27-2-1862, khi mới 24 tuổi, nêu gương sáng cho
cả người trẻ lẫn người già. Ngài được tuyên thánh năm 1920.
28/2 – CHÂN PHƯỚC DANIEL BROTTIER, LINH MỤC (1876-1936)
Daniel Brottier sinh ngày 7-9-1876 tại La
Ferté-Saint-Cyr, GP Blois (Pháp quốc). Ngài thụ phong linh mục năm 1899 và bắt
đầu dạy học tại trường Pontlevoy (Pháp). Ngài muốn loan báo Tin Mừng cả ngoài lớp
học nên ngài gia nhập Hội Truyền Giáo Chúa Thánh Thần (Congregation of the Holy
Ghost) tại Orly (Pháp) năm 1902, đi truyền giáo tại Saint-Louis, Senegal, thuộc
Tây Phi, năm 1903. Sau 8 năm, vì sức khỏe suy yếu, ngài trở lại Pháp năm 1911 và quyên góp tiền xây nhà thờ chính tòa mới tại
Dakar, Senegal. Thánh đường này được thánh hiến ngày 2-2-1936, chỉ vài tuần
trước khi ngài qua đời.
Bắt đầu Thế Chiến I, Daniel làm tuyên úy tình nguyện
và ra biên giới 4 năm. Ngài không trốn tránh nhiệm vụ. Thật vậy, ngài đã xả
thân giữa trận chiến và bị thương. Ngài được tuyên dương là can đảm 6 lần, được
thưởng Huân Chương Chiến Công (Croix de Guerre) và Bắc Đẩu Bội Tinh (Legion of
Honour). Ngài sống sót nhờ cầu nguyện với Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nên
ngài xây một nhà nguyện dâng kính thánh nữ tại Auteuil khi thánh nữ được phong
thánh.
Sau chiến tranh, ngài được mời giúp thành lập một dự
án cho trẻ mồ côi tại Auteuil, ngoại ô Paris. Ngài sống 13 năm ở đó. Ngài qua
đời ngày 28-2-1936 tại Paris. Có khoảng 15.000 người dân Paris đến kính viếng
ngài, và ĐHY Verdier đã giảng trong thánh lễ an táng ngài. Ngài được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên đáng kính ngày
13-1-1983 và tuyên chân phước ngày 25-11-1984.
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
https://tramthienthu.blogspot.com/2024/02/hanh-cac-thanh-thang-2-audio.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment