Chúa không hề ghét người giàu
Mà Ngài chỉ ghét thói kiêu thôi mà
Sự giàu có, thói kiêu sa
Liên quan gần gũi nên lo sợ nhiều
Người ta vênh váo tự kiêu
Bởi ỷ mình giàu nên chẳng xót ai
Muốn vô thì phải cúi người, khom lưng [*]
Nghĩa là phải biết khiêm nhường
Có khiêm nhường mới thật lòng thương yêu
Cúi đời khác với cúi đầu
Cúi đầu mà vẫn tự kiêu. Ích gì?
Trước hay sau khác nhau xa
Đứng đầu, đứng chót không hề gần nhau
Xác hèn mà trí vươn cao
Vẫn luôn cúi xuống mà yêu thương người
Bây giờ gian khó khắp nơi
Cao – thấp rạch ròi theo nghĩa từ tâm
Lạc đà to lớn xác thân
Nhưng khôn cúi xuống, chủ lên dễ dàng
TRẦM THIÊN THU
VŨ ĐIỆU LẠC ĐÀ
[Niệm ý Mt 19:23-30 ≈ Mc 10:23-31; Lc 18:24-30]
Vua Tia hợm hĩnh, kiêu căng
Liều mạng khinh thường, mạo nhận thần linh [1]
Phàm nhân mà dám ngông nghênh
Kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình khôn ngoan
Lạc đà là vật bốn chân
Lêu khêu, lóng ngóng, khó khăn chuyển dời
Bước đi chậm rãi lắm thôi
Làm sao múa điệu cho người mua vui?
Vì nghèo khổ phải ngậm ngùi
Phú ông ỷ lại, chê cười hàn nhân
Thế nên Chúa nói thẳng luôn:
“Nước Trời họ khó bước chân mình vào”
Lạc đà là dạng người giàu
Lỗ kim nó chẳng thể nào chui vô
Giàu không có tội chi mô
Tội là bởi họ khinh chê người nghèo
Thấy người thiếu thốn, gian lao
Cửa lòng họ khép chặt vào, khóa luôn
Người nhà cũng chẳng có phần
Đi làm từ thiện thì ơn ích gì?
Múa hoài vũ điệu lạc đà
Lóng ngóng như gà mắc sợi tóc thôi
Môn sinh sửng sốt cất lời:
“Thế ai được cứu, Thầy ơi, hỡi Thầy?”
Chúa nhìn thẳng, miệng nói ngay:
“Sẽ không thể đối với loài phàm nhân
Thế nhưng Thiên Chúa toàn năng
Mọi điều mọi sự chỉ xoàng mà thôi”
Khước từ là chuyện cả đời phàm nhân
Chứ đâu hệ tại vui – buồn
Khổ mà tin mến, phúc phần mai sau
Chỉ xin Thiên Chúa hai điều [2]
Không lừa đảo, cũng chẳng liều dối gian
Xin đừng phải chịu nghèo hèn
Xin đừng giàu có, đủ phần dùng thôi!
Hằng ngày vui phận bầy tôi
Mến Chúa, yêu người đúng luật Ngài ban
Không hề táng tận lương tâm [3]
Mất lòng nhân bởi vì phần táng minh [4]
Chịu luôn táng vị phần mình [5]
Lạy Thiên Chúa, Đấng nhân lành, cứu con!
TRẦM THIÊN THU
[2] Cn 30:7-9a – “Con chỉ xin hai điều, Ngài đừng nỡ chối từ trước khi con nhắm mắt: Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa. Xin ĐỪNG để con túng nghèo, cũng ĐỪNG cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài.”
[3] Táng tận lương tâm: mất hết cả lòng lành, mất tất cả lương tâm [động từ TÁNG: mất, đánh mất; trạng từ TẬN: đến hết mức giới hạn].
[5] Táng vị: mất địa vị – ý nói “mất cương vị làm con cái Thiên Chúa.”
GIÀU PHÚC GIÀU TỘI
[Niệm ý Mt 19:23-30 ≈ Mc 10:23-31; Lc 18:24-30]
Có một con lạc đà
Muốn chui lỗ kim nhỏ
Rán sức mà không thể
Nó đành phải chịu thua
Như truyện ếch và bò [*]
Ếch thấy mình bé nhỏ
Mà bò thì to thế
Nó muốn lớn bằng bò
Ngậm hơi phình bụng to
To nữa và to nữa
Quá căng nên bụng bể
Bong bóng ước vỡ tan
Người giàu có thì sang
Dễ khinh chê người khác
Có thể hóa tội ác
Nên khó vô Nước Trời
Giàu mà biết thương người
Giàu như thế là tốt
Thiên Chúa luôn chúc phúc
Giàu đó là giàu khôn
Đừng để cho bạc tiền
Hóa ma lực điều khiển
Đừng để nó sai khiến
Làm mờ tối tâm hồn
Lạy Thiên Chúa từ nhân
Xin soi đường chân lý
Để hiểu biết mọi lẽ
Sống chuẩn mực giữa đời
Nguồn hạnh phúc là Ngài
Chúng con luôn mơ ước
Xin vượt qua mưu chước
Để thẳng tiến Nước Trời
TRẦM THIÊN THU
[*] Truyện thơ ngụ ngôn của Jean de La Fontain (1621-1695, Pháp).
NGOA NGỮ
[Niệm ý Mt 19:23-30 ≈ Mc 10:23-31; Lc 18:24-30]
Lỗ kim bé tẹo tèo teo
Nghĩa là sợi chỉ mới vào lọt thôi
Lạc đà to lớn hơn voi
Một trời một vực, đừng đòi chui qua
Lỗ kim là cửa ngày xưa
Không là kim nhỏ giống như thời này
Dẫu là ngoa ngữ mà hay
Ý rằng cửa hẹp phải xoay kéo vào
Muốn thì chẳng khó mấy đâu
Kẻ chẳng muốn vào, đủ lẽ biện minh
Con đường dẫn tới Thiên Đình
Một chiều độc đạo – đường tình, lối yêu
Chúa nào có ép buộc đâu
Mà Ngài chỉ muốn người yêu chân thành
Yêu thì ắt sẽ hy sinh
Nước Trời qua cửa thập hình thênh thang
Nói ngoa mà tuyệt quá chừng
Lỗ kim nhỏ bé mà không khó vào
Lách vào chắc chắn sẽ đau
Lỗ kim Thập Giá – lối vào Thiên Cung
TRẦM THIÊN THU
TỔ SƯ THẦN ĐÈN
Hôm qua hắn về thăm người em cột chèo ở Mỹ
Tho. Cô em vợ nói:
– Anh Tư ngồi ăn cơm, chút chiều anh Đức em
mới về, ảnh đang làm công trình ở Cai Lậy.
Hắn hỏi:
– Công trình lớn hay nhỏ?
Cô em vợ nói:
– Dạ, nhỏ. Di dời căn nhà hai tầng vô phía
trong chừng chục mét vì ở ngoài mé sông sợ lở đất.
Người em cột chèo của hắn là một thần đèn mới
ra nghiệp. Trước đây Bảy Đức làm công cho thần đèn Nguyễn Văn Cư, nổi tiếng vì
di dời những công trình đồ sộ, trong đó có công trình nâng nhà thờ giáo xứ Nữ
Vương Hòa Bình, nặng 6 ngàn tấn, lên cao 2 mét. Sau này, nhờ có kinh nghiệm và
khéo tay, Bảy Đức ra mở công ty riêng.
Xẩm tối, Bảy Đức về. Cơm nước qua loa xong,
hai anh em ngồi uống rượu với nhau. Thấy Bảy Đức mặt cứ buồn buồn, hắn hỏi:
– Có chuyện gì mà bữa nay uống rượu như Phan
Thanh Giản uống thuốc độc vậy?
– Ông tổ nghề thần đèn tụi em vừa chết, um xùm
cả nước, bộ anh không hay hả?
– Không, ai vậy?
– Lê Khả Phiêu chứ ai.
Hắn há hốc miệng ngạc nhiên nhìn bảy Đức. Bảy
Đức châm đầy 2 ly rượu xong mới từ từ nói, nét mặt vẫn buồn thiu:
– Ổng là ông tổ nghề của tụi em đó. Cái ải
Nam Quan nặng hơn 10 ngàn tấn mà ổng di dời sâu vô đất Trung Quốc gần 200 mét
chỉ mất có mấy ngày. Rồi còn Thác Bản Giốc, nước đang chảy ào ào nha, mà ổng
vẫn di dời được phân nửa cái thác qua bên Trung Quốc. Công trình hoàn thành,
nước chảy còn ác liệt hơn hồi chưa di dời...
Hớp cạn ly rượu, Bảy Đức chép chép miệng rồi
cho biết:
– Ngày mốt tất cả thần đèn tụi em đều phải có
mặt ở Hà Nội để làm ma cho ổng, giống như là quốc tang của nghề thần đèn vậy
đó. Quốc tang xong thì sẽ mang xác đi thiêu ở Ải Nam Quan.
– Giỡn chơi hoài. Bây giờ nó thuộc về đất
Trung Quốc rồi, ai cho thiêu?
– Dạ, ban tổ chức thần đèn tụi em đã liên hệ
với nhà quàn bên Trung Quốc. Nhà quàn chịu trách nhiệm lo giấy phép, củi lửa,...
Mà có điều ngộ ghê nha, nghe nói bà chủ nhà quàn người Tàu này chính là người
đã lén cặp bồ với ổng, lúc ổng qua làm công trình di dời Ải Nam Quan.
Trước khi nhúng miếng khô cá Dứa vào dĩa
tương ớt, hắn hỏi bâng quơ một câu cho có chuyện, chứ hắn cũng chẳng thiết tha
gì tới đề tài này:
– Thiêu rồi, chắc mang tro cốt về nhà thờ?
– Dạ không. Theo lời trối của ổng thì ổng dặn
đừng chôn ở VN vì sợ thiên hạ ỉa đái lên mộ. Ổng muốn sau khi chết sẽ thiêu ổng
ở Ải Nam Quan, ngay chỗ ngày xưa Mạc Đăng Dung đã từng lê lết trói mình, quỳ
lạy giặc Tàu xin dâng đất. Sau đó lấy tro cốt đem rải xuống Thác Bản Giốc để
cho linh hồn ông được mãi mãi tiêu diêu miền... Trung Quốc.
LOC DUONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment