Lấy cảm hứng từ sự thành công của lá cờ cầu
vồng, những người ủng hộ quyền được sống của những đứa trẻ chưa chào đời đã vận
động dưới một biểu ngữ.
Pro-Life Flag Project (Dự Án Cờ Bảo Vệ Sự Sống) đã công bố thiết kế được chọn làm biểu tượng quốc tế, đại diện cho sự bảo vệ quyền sống của thai nhi.
Được thiết kế bởi họa sĩ Nanda Gasperini, người
Brazil, lá cờ màu hồng và xanh lam – có hình hai bàn chân em bé ở giữa đôi bàn
tay của người mẹ – đã được bầu chọn nhiều nhất. Từ nay, lá cờ này trở thành
tiêu chuẩn thống nhất cho phong trào bảo vệ sự sống trên khắp thế giới.
Theo SecularProLife.org, một đối tác trong dự
án đưa ra lá cờ bảo vệ sự sống, thiết kế chiến thắng này mang tính biểu tượng
cao:
⦁ Nền trắng tượng trưng sự bất bạo động khi
còn trong bụng mẹ cũng như sự ngây thơ của đứa trẻ chưa chào đời.
⦁ Hai bàn chân tượng trưng nhân tính của đứa
trẻ chưa chào đời, bàn chân em bé đã là biểu tượng gắn liền với phong trào bảo
vệ sự sống kể từ khi ghim ve áo mang tính biểu tượng của phong trào Precious
Feet đặt tên là biểu tượng bảo vệ sự sống quốc tế hồi năm 1979.
⦁ Hai bàn tay hồng tượng trưng người mẹ mang
thai, đang ôm ấp và che chở cho đứa con của mình. Trái tim màu trắng ở giữa hai
bàn chân tượng trưng tình yêu của phong trào bảo vệ sự sống dành cho cả mẹ và
con.
⦁ Hai sọc màu nhấn mạnh HAI cuộc sống riêng
biệt của con người trong thai kỳ.
⦁ Các đường sọc tạo thành “dấu hiệu bình đẳng,”
nhấn mạnh rằng đứa trẻ chưa sinh ra là con người bình đẳng và đầy đủ, vì thế xứng
đáng được hưởng các quyền bình đẳng của con người.
Dự án này được tài trợ bởi một số nhóm bảo vệ
sự sống đại diện cho cả những người có đạo và không có đạo. Lấy cảm hứng một
phần từ sự thành công của cờ cầu vồng trong việc thúc đẩy nguyên nhân có liên
quan, các nhà tổ chức hy vọng mọi người trên khắp thế giới sẽ quy tụ lại xung
quanh một lá cờ dễ nhận biết. Ít nhất thì lá cờ sẽ khiến người ta nghĩ lại việc
phá thai.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ Aleteia.org)
CÁC DANH NHÂN NHẬN ĐỊNH VỀ THIÊN CHÚA
Johannes Kepler (1571-1630), một trong những
nhà thiên văn vĩ đại nhất, nói: “Thiên
Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Ngài vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn. Hãy ca
tụng Ngài bằng ngôn ngữ của mình, hỡi trời và đất, mặt trời và mặt trăng, các
tinh tú. Lạy Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên con! Với trí khôn giới hạn của
con, con muốn loan báo sự kỳ diệu của các công trình Ngài cho mọi người hiểu
được.”
Nicolaus Copernicus (1473-1543), nhà thiên
văn học và là người đề xuất thuyết nhật tâm (heliocentrism), nói: “Ai có thể sống cận kề với một trật tự hoàn
bị nhất và trí năng siêu vượt của Thiên Chúa mà không cảm thấy dâng trào những
cảm hứng cao quý? Nào ai không thán phục vị kiến trúc sư của tất cả các công
trình này?”
Isaac Newton (1643-1727), người sáng lập vật
lý lý thuyết cổ điển, nói: “Điều ta
biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la.
Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng
toàn năng và toàn tri.”
Carl Linnaeus (1707-1778), người sáng lập môn
thực vật học hệ thống, nói: “Tôi đã
thấy Thiên Chúa toàn năng, vô hạn và vĩnh cửu đi ngang qua rất gần, và tôi quỳ
xuống bái lạy Ngài.”
Alessandro Volta (1745-1827), người khám phá
ra các ý niệm cơ bản về điện, nói: “Tôi
tuyên xưng đức tin Công giáo Rôma, thánh thiện và tông truyền. Tạ ơn Thiên Chúa
đã ban cho tôi đức tin này, nhờ đó mà tôi có ý hướng vững chắc để sống và
chết.”
André-Marie Ampère (1775-1836), người khám
phá ra các định luật cơ bản về điện, nói: “Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt
vãnh!”
Augustin Louis Cauchy (1789-1857), nhà toán
học kiệt xuất và nhà sáng lập môn toán phân tích phức tạp (complex analysis),
nói: “Tôi là Kitô hữu, có nghĩa là
tôi tin vào thần tính của Đức Kitô, giống như tất cả các nhà thiên văn vĩ đại
khác cũng như các nhà toán học lớn trong quá khứ.”
Carl Friedrich Gauss (1777-1855), được coi là
“ông hoàng của các nhà toán học” vì đã đóng góp nhiều vào lãnh vực toán học và
khoa học, nói: “Khi giờ cuối cùng đã
điểm, chúng ta vui sướng hân hoan vì sẽ nhìn thấy Đấng mà chúng ta chỉ có thể
thấy lờ mờ trong tất cả những khám phá của chúng ta.”
Justus von Liebig (1803-1873), nhà hóa học
lừng danh, nói: “Sự vĩ đại và trí
khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút
ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên.”
Robert Mayer (1814-1878), nhà khoa học tự
nhiên (định luật bảo tồn năng lượng), nói: “Tôi đang dần kết thúc cuộc đời mình với sự quả quyết rằng: khoa học
thật sự và triết học thật sự không là gì khác ngoài là môn dẫn nhập cho Kitô
giáo.”
Angelo Secchi (1803-1895), nhà thiên văn học
lừng danh, nói: “Từ chiêm ngưỡng đất
trời đến Thiên Chúa chỉ là một khoảng cách ngắn.”
Thomas A. Edison (1847-1931), nhà sáng chế
nắm giữ 1.200 bằng sáng chế, nói: “Tôi
tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất:
Thiên Chúa.”
Carl Ludwig Schleich (1859-1922), nhà phẫu
thuật nổi tiếng, người tiên phong của phương pháp gây tê tại chỗ (local
anesthesia), nói: “Tôi trở thành tín
hữu qua kính hiển vi và quan sát thiên nhiên, và tôi muốn đóng góp theo khả
năng mình vào sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo.”
Guglielmo Marconi (1874-1937), nhà sáng chế
vô tuyến điện thoại, giải Nobel 1909, nói: “Tôi hãnh diện tuyên xưng rằng mình là một tín hữu. Tôi tin vào quyền
năng của sự cầu nguyện, và tôi tin không chỉ như là người Công giáo mà còn là
một nhà khoa học.”
Robert Millikan (1868-1953), Nhà vật lý Hoa
Kỳ, giải Nobel 1923, nói: “Tôi có
thể khẳng định rằng việc từ chối đức tin là thiếu nền tảng khoa học. Theo quan
điểm của tôi, không có bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa đức tin và khoa học.”
Arthur Eddingtong (1882-1946), Nhà thiên văn
học người Anh, nhà toán học và vật lý thiên thể, nói: “Trong số những người sáng tạo nên thuyết vô thần thì không có ai là
nhà tự nhiên học. Tất cả họ đều là những triết gia tồi.”
Albert Einstein (1879-1955), người đặt nền cho
vật lý hiện đại (thuyết tương đối), giải Nobel 1921, nói: “Những ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều
chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ trụ đều có bóng dáng của
một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta phải cảm thấy mình thật
thấp kém.”
Max Planck (1858-1947), người sáng tạo nên
vật lý lượng tử (quantum physics), giải Nobel 1918, nói: “Do xung lượng của kiến thức đòi hỏi, không
gì ngăn cản chúng ta liên kết trật tự của vũ trụ với Thiên Chúa của tôn giáo.
Đối với người tin, Thiên Chúa đứng ở đầu câu chuyện; đối với nhà vật lý, Thiên
chúa ở cuối câu chuyện.”
Erwin Schrödinger (1887-1961), người khám phá
ra cơ học sóng (wave mechanics), giải Nobel 1933, nói: “Kiệt tác tinh vi nhất là tác phẩm của Thiên
Chúa, theo các nguyên tắc cơ học lượng tử (quantum mechanics)…”
Howard H. Aiken (1900-1973), người tiên phong
trong lãnh vực máy tính, nói: “Vật
lý hiện đại dạy tôi rằng thiên nhiên không thể tự xếp đặt mình theo trật tự. Vũ
trụ là một khối trật tự khổng lồ. Vì vậy, nó đòi hỏi một ‘Nguyên Nhân Đầu Tiên’
thật vĩ đại và không phụ thuộc vào đinh luật biến đổi năng lượng hai và vì thế
đó là Đấng Siêu Nhiên.”
Wernher von Braun (1912-1977), kỹ sư tên lửa
và kiến trúc sư không gian, nói: “Trên
hết mọi sự là vinh quang Thiên Chúa, Đấng mà con người và khoa học khám phá và
tìm kiếm mỗi ngày với sự tôn kính thẳm sâu.”
Charles Townes (1915-?), nhà vật lý cùng nhận
giải Nobel 1964 vì đã khám phá ra các nguyên tắc của tia laser, nói: “Là người có tôn giáo, tôi cảm thấy được sự
hiện diện và can thiệp của Đấng Sáng Tạo ở cách xa tôi nhưng luôn rất gần… một
trí năng góp phần sáng tạo nên các định luật của vũ trụ.”
Allan Sandage (1926-2010), nhà thiên văn Hoa
Kỳ, người tính toán tốc độ giãn nở của vũ trụ và tuổi của nó bằng cách quan sát
các vì sao xa, nói: “Thuở thiếu thời
tôi là người vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới này phức
tạp hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng cách nại
vào một Đấng Siêu Nhiên.”
Charles Darwin (1809-1882), thuyết tiến hóa, nói: “Tôi không bao giờ từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tôi nghĩ thuyết tiến hóa phù hợp với niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi cho rằng bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự hiện hữu của Thiên Chúa đó là chúng ta không thể giải thích hay hiểu được vũ trụ mênh mông vượt xa mọi phép tính toán và không thể giải thích được rằng con người là kết quả của ngẫu nhiên.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment