Thánh Phaolô xác
định: “Thiên Chúa là nguồn gốc mọi gia
tộc trên trời, dưới đất.” (Ep 3:15) Thật vậy, dù là Thiên Chúa Ngôi Hai,
khi chấp nhận mặc xác phàm làm người, Chúa Giêsu cũng sinh sống trong một gia
đình bình thường: “Hằng năm, cha mẹ Đức
Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta
thường làm trong ngày lễ.” (Lc 2:41-42) Không chỉ vậy, Ngài vẫn giữ đạo làm
con là “hằng vâng phục cha mẹ.” (Lc 2:51)
Ngày 9-10-2010,
tại TP Cedar Lake (Indiana, Hoa Kỳ), TGM Robert J. Carlson, TGP St. Louis, đã
khánh thành Đền Thờ Thánh Gia. Đền thờ này tọa lạc tại một khu đất rộng và
hướng ra một hồ nước, và đó là lời mời gọi mọi người sùng kính Thánh Gia, gương
mẫu yêu thương và các nhân đức (đối thần và đối nhân), bằng cách tạo bầu không
khí cầu nguyện ngay trong gia đình và giúp nhau suy niệm về đời sống gia đình
của Thánh Gia.
Bức tượng Thánh
Gia (hình) do điêu khắc gia Cynthia Hitschler tạo hình bằng đồng, nặng khoảng
360 kg. Bức tượng có phong cách “lạ”, nhìn rất “hồn nhiên”, thể hiện sự thân
thiện của các thành viên gia đình: Thánh Nhi Giêsu (khoảng 9-10 tuổi), Đức
Thánh Maria và Đức Thánh Giuse. Bức tượng được tạo hình lớn bằng người thật, và
được đặt giữa phòng để mọi người có thể ngắm nhìn từ mọi hướng.
Gia đình rất giản
dị nhưng lại vô cùng quan trọng. Trong Anh ngữ, “gia đình” là FAMILY. Có thể
coi từ đó được ghép bởi các mẫu tự đầu của các chữ trong một câu nói: “Father
And Mother, I Love You – Thưa cha mẹ, con yêu cha mẹ.” Một cộng đồng nhỏ mà chan
hòa tình yêu thương như vậy thì thật là tuyệt vời!
Gia đình Kitô
giáo lại càng quan trọng hơn vì là “mô hình thật” của Thánh Gia, luôn phải được
canh tân và được thánh hóa. Thánh hóa gia đình phải khởi đầu từ mỗi thành viên
gia đình, vì mỗi người “là thân thể Đức Kitô và là một bộ phận.” (1 Cr
12:27) Thánh Phaolô đã đặt vấn đề: “Nào
anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3:16) Dạng nghi vấn như vậy là dạng xác
định được nhấn mạnh. Như vậy, gia đình đúng là “ngôi đền của sự sống”. Tại sao?
Vì mỗi thành viên là một đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần.
Cha là “phần
cứng”, mẹ là “phần mềm”, con cái là những “phai” yêu thương (files of love)
được sản sinh bởi “phần cứng” và “phần mềm” đó. Cha – Mẹ – Con là ba phần riêng
biệt, nhưng là “bộ ba” tạo thành một tổng thể gia đình, là hình ảnh sống động
của Chúa Ba Ngôi. Phần nào cũng có vị trí quan trọng nhất định, không thể thiếu
phần nào trong mỗi gia đình. Cha thâm trầm như sóng ngầm, không thể hiện ra
ngoài; mẹ “sôi nổi” như sóng cồn, là cách thể hiện riêng. Loại “sóng” nào cũng
cần để tạo thành biển – biển yêu thương. Thật vậy, cả cha và mẹ đều yêu thương
con cái hơn cả chính mình. Chuyện kể rằng…
Thuở nhỏ, gia
đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở
trong chén mình chia đều cho các con. Mẹ bảo: “Các con ăn nhanh đi, mẹ không
đói!” Đó là lần đầu tiên mẹ nói dối!
Khi cậu bé lớn
dần lên, người mẹ tảo tần lại tranh thủ những ngày nghỉ cuối tuần, đến những
vùng đầm hồ ven đô bắt cá về để con ăn cho đủ chất. Cá rất tươi, canh cá cũng
rất ngon. Khi các con ăn thịt cá, mẹ lại ngồi một bên nhằn đầu cá, lấy lưỡi
liếm những mảnh thịt sót lại trên đầu cá. Cậu bé xót xa, liền gắp miếng cá trong
bát mình sang bát mẹ. Mẹ không ăn, lại dùng đũa gắp trả miếng cá về bát cậu bé.
Mẹ bảo: “Con trai, con ăn đi, mẹ không thích ăn cá.” Mẹ nói dối lần thứ hai.
Lên cấp II, để
nộp đủ tiền học phí cho cậu bé và anh chị, mẹ vừa làm thợ may vừa nhận vỏ hộp
diêm về nhà ngồi cặm cụi dán vào mỗi tối, để kiếm thêm chút tiền chi tiêu cho
gia đình. Một buổi tối mùa Đông, nửa đêm cậu bé tỉnh giấc. Thấy mẹ vẫn còng
lưng dán vỏ bao diêm bên cạnh chiếc đèn dầu. Cậu bé nói: “Mẹ à, mẹ đi ngủ thôi,
sáng ngày mai mẹ còn phải đi làm nữa mà. Mẹ cười nhẹ: Con trai, đi ngủ đi. Mẹ
không buồn ngủ!” Mẹ nói dối lần thứ ba.
Ngày thi vào
trung học, mẹ xin nghỉ làm. Ngày nào cũng đứng ở cổng trường thi để làm “chỗ
dựa tinh thần” cho cậu bé đi thi. Đúng vào mùa hạ, trời nắng cháy khét tóc.
Người mẹ nhẫn nại đứng dưới cái nắng hè gay gắt chờ con suốt mấy tiếng đồng hồ.
Tiếng chuông hết giờ đã vang lên. Mẹ nghiêng người đưa cho cậu bé bình nước, dỗ
dành cậu bé uống. Bình trà nồng đượm, tình mẹ còn nồng đượm hơn. Nhìn bờ môi
khô nẻ và khuôn mặt lấp lánh mồ hôi của mẹ, cậu bé liền đưa bình trà trong tay
mời mẹ uống. Mẹ bảo: “Con uống nhanh lên con. Mẹ không khát!” Mẹ nói dối lần thứ tư.
Sau khi cha lâm
bệnh qua đời, mẹ vừa làm mẹ vừa làm cha. Vất vả với chút thu nhập ít ỏi từ nghề
may vá. Ngậm đắng nuốt cay nuôi con ăn học, cái khổ không lời nào kể xiết. Có
chú sửa đồng hồ dưới chân cây cột điện đầu ngõ biết chuyện, việc lớn việc nhỏ
chú đều tìm cách qua giúp một tay. Từ chuyển than, gánh nước, giúp ít tiền cho
gia đình cậu bé tội nghiệp. Con người chứ đâu phải cây cỏ, lâu rồi cũng sinh
tình cảm. Xóm giềng biết chuyện đều khuyên mẹ tái giá, việc gì phải một mình
chịu khổ thế. Nhưng qua nhiều năm mẹ vẫn thủ thân như ngọc, kiên quyết không đi
“bước nữa”. Mọi người khuyên thế nào mẹ vẫn kiên quyết không nghe. Mẹ bảo: “Mẹ
không yêu chú ấy.” Mẹ nói dối lần
thứ năm.
Sau khi cậu bé và
các anh chị cậu tốt nghiệp đại học đi làm. Mẹ nghỉ hưu rồi nhưng vẫn tiếp tục
làm những việc lặt vặt ở chợ để duy trì cuộc sống. Các con biết chuyện thường
xuyên gửi tiền về để phụng dưỡng mẹ. Mẹ kiên quyết không nhận. Tất cả tiền con
gửi về, mẹ đều gửi trả. Mẹ bảo: “Mẹ có tiền mà. Vả lại mẹ có chi tiêu gì
đâu!” Mẹ nói dối lần thứ sáu.
Cậu bé ở lại
trường dạy hai năm, sau đó thi đỗ học bổng học thạc sĩ ở một trường đại học
danh tiếng tại Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp cậu ở lại làm việc tại một công ty
nghiên cứu máy móc. Sống ở Mỹ một thời gian, khi đã có chút điều kiện, cậu muốn
đưa mẹ qua Mỹ sống để phụng dưỡng mẹ tốt hơn. Nhưng lại bị mẹ từ chối. Mẹ bảo:
“Mẹ không quen!”. Mẹ nói dối lần
thứ bảy.
Nhiều năm trôi
qua, mẹ lâm trọng bệnh, phải vào viện điều trị. Khi con trai đáp máy bay từ nơi
xa xôi về thăm mẹ, mẹ già đi nhiều và yếu quá rồi. Nhìn mẹ bị bệnh tật dày vò
đến thập tử nhất sinh, thấy con trai đau đớn vì thương xót mẹ. Mẹ lại bảo: “Con
trai, đừng khóc, mẹ không đau đâu.” Và đó là lời nói dối cuối cùng của mẹ!
Những “lời nói
dối dễ thương” của mẹ, nói dối vì yêu con! Chuyện kể về mẹ như vậy, nhưng cũng
có ý nói về cha. Gia đình là thế đó! Gia đình được nối kết bằng chữ YÊU. Việt
ngữ “độc đáo” lắm. Chữ Y như “chạc ba”, xuất phát và quy tụ từ ba hướng: Hướng
Cha, hướng Mẹ và hướng Con. Tất cả PHẢI quy về một mối mới khả dĩ tạo gia đình
thành một Tổ Ấm thực sự.
ĐGH Phanxicô đã
có lần nói về gia đình: “Trong gia đình,
người ta không xâm lấn nhau nhưng biết xin phép. Trong gia đình người ta không ích kỷ nhưng tập nói tiếng cám ơn. Trong gia đình, khi
người ta nhận ra mình đã làm điều xấu và biết xin lỗi thì gia đình ấy có an
bình và niềm vui.” Đạo của
Thiên Chúa là Đạo Yêu Thương, gia đình phải là chiếc nôi ươm mầm yêu thương,
muốn vậy thì mỗi thành viên phải sống yêu thương.
Trong thông điệp
“Deus Caritas Est” (Thiên Chúa là Tình Yêu, 25-12-2005), ĐGH Biển Đức XVI đã
phân biệt ba cấp độ yêu thương dựa theo Hy ngữ:
1.
EROS – tình yêu nhục thể. Tình yêu này biểu lộ nơi tình yêu nam nữ trong
tương quan vợ chồng.
2.
PHILIA – tình yêu lý tưởng. Tình yêu này là tình bạn, lòng yêu nghệ thuật,
lòng ái quốc.
3.
AGAPE – tình yêu siêu thoát. Tình yêu này vượt qua các quy định của con
người (sự khác biệt giới tính, văn hoá, xã hội, giai cấp, tôn giáo,...) để vươn
tới chính Thiên Chúa.
Gia đình là “ngôi
đền của sự sống”, tức là phải đầy ắp tình yêu thương. Đó là sống tình yêu
thương của Chúa Ba Ngôi, là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu, là chứng nhân
của Thiên Chúa tình yêu giữa cuộc đời này. Đồng thời đó cũng là cách mỗi người
tự hoàn thiện theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy
nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48)
Với những người
làm con, sách Châm Ngôn nhắn nhủ: “Lệnh
cha truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ khuyên, chớ bỏ ngoài tai.” (Cn 6:20) Cũng vậy, Thánh Phaolô khuyên: “Kẻ làm con, hãy vâng lời
cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa:
để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này.” (Ep 6:1-3)
Với những người
làm cha mẹ, Thánh Phaolô khuyên: “Những
bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái
tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.” (Ep
6:4) Nếu cần thì có thể trừng phạt, nhưng phải trừng phạt trong tinh thần yêu
thương chứ không trừng phạt như kẻ thù.
Về bổn phận vợ
chồng, Thánh Phaolô khuyên: “Chồng hãy
làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy.” (Ep 7:3) Thánh
Phaolô còn nói thẳng luôn chứ chẳng “úp mở” chi cả: “Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy
trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau,
kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ.” (Ep 7:5)
Như chúng ta đã
biết, gia đình được liên kết bằng “sợi dây yêu thương”, vì thế gia đình phải
tràn đầy tiếng cười của sự bình an. Nếu không có yêu thương thì gia đình trở
thành vùng sỏi đá, miền khô cằn hoặc hoang địa (sa mạc). Và từ đó có thể nảy
sinh cái xấu, thậm chí là tội lỗi. Nếu thấy một thành viên nào có biểu hiện của
cái xấu thì mọi thành viên khác phải cương quyết ngăn chặn ngay, đừng để cái
xấu trở thành “lối mòn” thì khó mà uốn nắn lại. Cha mẹ đừng ảo tưởng về con cái
– dù trai hay gái, vì chúng có thể “ra vẻ” ngoan ngoản ở nhà, nhưng ra ngoài
thì chúng như “ông trời con”, như “đại ca” vậy. Ngay trong xã hội Việt Nam cũng
đã có nhiều trường hợp như vậy. Từ “chuyện nhỏ” sẽ nảy sinh “chuyện lớn”. Tấm
“gương mờ” trong Cựu Ước còn đó: Vì tham
lam sinh ích kỷ, vì ích kỷ sinh
đố kỵ, vì đố kỵ sinh ghen ghét, vì ghen ghét sinh hận thù, vì hận thù sinh tội lỗi, do đó mà Ca-in đã nhẫn tâm giết chính đứa em máu mủ ruột
rà với mình. Đúng như tiền nhân đã cảnh báo: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền.”
Sau khi Ca-in
phạm tội sát nhân, Thiên Chúa đã hỏi Ca-in: “Em
của ngươi đâu?” (St 4:9) Tất nhiên Ca-in không thể trả lời, muốn im lặng
làm ngơ mà không được nên đành phải chối quanh. Thế nhưng vải thưa không thể
che mắt thánh! Vì thế, chúng ta đừng để Thiên Chúa phải lên tiếng hỏi chúng ta
lời lẽ như vậy, chắc chắn chúng ta cũng không thể trả lời được đâu!
Một gia đình có hơi ấm yêu thương, dựa trên nền tảng yêu thương của
Thiên Chúa, gia đình đó sẽ tốt lành. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện “bảy mẹ con tử đạo.”
(2 Mcb 7:1-31) Nhìn các con lần lượt bị
giết, nhưng người mẹ đó vẫn hiên ngang và động viên đứa con út không tham sanh
úy tử, can đảm liều chết để vinh danh Chúa, vì người mẹ này tin rằng “chết là
một mối lợi” (Pl 1:21), là biến đổi, là bước vào sự sống vĩnh hằng. Một người
mẹ đạo đức như vậy thì chắc chắn bà cũng giáo dục con cái sống đức tin vững
vàng. Đó là minh chứng hùng hồn về một “ngôi đền của sự sống”, tức là gia đình.
Cuộc đời các Kitô
hữu là hành trình đức tin, là sống đức tin, thế nên chúng ta rất cần biết thân
thưa với Chúa: “Xin dạy chúng con đếm
tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Thánh
Vịnh gia chân thành khuyên chúng ta: “Hãy
ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.” (Tv
37:5)
Sống đức tin là
cố gắng tự hoàn thiện để nên thánh ngay trong môi trường gia đình, tức là sống
các nhân đức (đối thần và đối nhân). Nhưng thế nào là nhân đức? Thánh nữ
Faustina giải thích: “Bản chất của nhân
đức là Ý Chúa. Ai trung tín thực hiện Ý Chúa thì cũng thực hành các nhân đức.” (Nhật
Ký, số 678) Mối liên kết thật kỳ lạ!
Triết gia Chu Hi
(Zhū Xī, Trung Hoa, 1120-1200) nói về đời sống gia đình và xã hội: “Cách trị nhà cốt ở hoà thuận, cách mưu sinh
cốt ở siêng năng.” Đúng là “nhân chi sơ tính bổn thiện”, thế nên tâm địa
người tốt rất gần với Thiên Chúa, Đấng nhân lành tuyệt đối. Nói về cuộc sống,
Amelia Mary Earhart (1897-1939, nữ phi công kiêm văn sĩ, Hoa Kỳ) có nhận xét
liên quan gia đình: “Người ta càng làm
nhiều, thấy nhiều và cảm nhận nhiều, người ta càng có thể làm được nhiều, và
càng biết đánh giá chân thực về những điều cơ bản như gia đình, tình yêu và
thấu hiểu sự đồng hành.”
Người ta không
chỉ sống mà còn phải bảo vệ sự sống, tức là bảo vệ các thai nhi, vì mầm sống
được bắt đầu từ gia đình. Ngoài ra, về tâm linh, cầu nguyện là sức sống của đời
sống Kitô hữu. Tuy nhiên, đôi khi người ta hiểu cầu nguyện theo “nghĩa hẹp” là
XIN, và thường chỉ xin cho mình, đúng ra còn phải xin cho người khác, đặc biệt
là phải biết chúc tụng, tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghe Thánh
tiến sĩ Thomas Aquinas phân tích: “Chúng
ta cầu xin Chúa, không phải để Ngài biết nhu cầu và ước muốn của chúng ta, mà
để chúng ta biết cần phải đến với Chúa
để xin ơn phù trợ.”
Thánh Gioan Kim
Khẩu nói: “Sau khi đặt sự thiện và sự dữ
trong khả năng của chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta quyền tự do để lựa chọn. Người không
chấp nhận những gì miễn cưỡng, nhưng
đón nhận những gì tự nguyện.”
Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do nên Ngài luôn tôn trọng tự do của chúng
ta. Chính vì Ngài tôn trọng tự do của chúng ta nên chúng ta mới đáng quan ngại.
Nghĩa là tùy ý chúng ta, nếu sống tốt thì được tưởng thưởng, nếu sống xấu thì
bị trừng phạt, đó là quyền tự do của chúng ta, không thể biện minh là “tại, vì,
nếu, giá mà, phải chi,…”.
Tóm lại, mỗi
thành viên gia đình viên-đá-quý-đức-tin và đóa-hoa-tươi-yêu-thương, phải luôn
biết quên mình mà “sống vì”, “sống cho” và “sống với” – nghĩa là hãy sống sao
cho gia đình trở thành “ngôi đền của sự sống” thực sự sống động. Điều đó phải
thực hành suốt cuộc đời của chúng ta, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương
Thánh Gia và biết không ngừng cố gắng trở nên những viên-đá-yêu-thương sống
động để xây dựng những Ngôi Đền của Sự Sống, nơi có Thiên Chúa ngự trị. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
[Đăng báo ĐMHCG số 401, tháng 01-2020, DCCT xuất
bản tại Hoa Kỳ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment