Chúa Giêsu căn dặn: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37) Phêrô là một trong những người đầu tiên
được mời gọi đi theo Ngài, và ông đã bỏ tất cả để theo Ngài. Dấu hiệu ơn gọi là
có Đức Tin mạnh mẽ và đúng đắn – như Ápraham được Thiên Chúa kêu gọi. Đức Tin
đó đơn giản và rõ ràng, nhưng quan trọng.
Không cần mức cao về Chỉ Số Thông
Minh (IQ – Intelligence Quotient), mà cần mức cao về Chỉ Số Đức Tin (FQ – Faith
Quotient). Chúa Giêsu xác định với các môn đệ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và
cắt cử anh em để anh em ra đi.” (Ga 15:16)
Hai con người Phêrô và Phaolô với hai nét rất
riêng, được Thiên Chúa đặc cách, và là hai cột trụ vững chắc chống đỡ Giáo Hội.
Ông Phêrô đã được Chúa Giêsu vừa hứa vừa giao trách nhiệm: “Thầy đã cầu
nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm
cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22:32) Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu
đã trao cho ông “Chìa Khóa Nước Trời” với chức vụ giáo hoàng tiên khởi, còn ông
Phaolô được chọn làm Tông Đồ của Dân Ngoại. Cả hai đều bị Thiên Chúa thu phục,
và cả hai cũng đã thần phục.
Chúng ta không thể lý luận để hiểu thấu theo
lý lẽ của phàm nhân, bởi vì Thánh Ý Thiên Chúa rất nhiệm mầu. Một ngư phủ Simon
cương trực, thẳng thắn, thật thà, nhưng cũng hèn nhát, thế nên ông chẳng ngần
ngại chối bỏ Thầy mình ngay trong lúc cấp bách nhất, thậm chí có lần còn bị
Chúa Giêsu nguyền rủa là Satan, (Mt 16:23) nhưng một Phêrô hèn nhát đó đã biến
thành một Phêrô can đảm và chịu đóng đinh ngược vì Thầy Giêsu. Một Saolê hung
tàn và bạo ngược, quyết tâm giết sạch những ai dám tuyên xưng Đức Kitô là Con
Thiên Chúa, thậm chí còn chủ trì trong cuộc sát hại Phó tế Stêphanô, (Cv 7:58) nhưng
một Saolê độc ác đó lại hóa thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô
chịu chết và phục sinh.
Kinh Thánh xác định: “Vàng phải được tôi
luyện trong lửa, những người sáng giá phải được thử trong lò ô nhục.” (Hc
2:5) Chắc chắn ai theo Chúa Giêsu cũng phải chịu nhiều đau khổ, bằng cách này
hay cách khác, chẳng ai có thể thảnh thơi an nhàn. Sách Công Vụ cho biết thực
tế đó: “Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội
Thánh. Nhà vua đã cho CHÉM ĐẦU ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm
vừa lòng người Do Thái, nhà vua lại cho BẮT cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần
lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp
lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho
dân chúng. Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, Hội Thánh không ngừng dâng
lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.” (Cv 12:1-5) Thời nào
cũng có bách hại, chỉ khác về cách thức và mức độ.
Thật kỳ diệu, có một phép lạ nhãn tiền về
việc cứu thoát ông Phêrô: “Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông
Phêrô ngủ giữa hai người lính và bị khóa vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại
có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, ánh sáng chói rực cả
phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo ông đi. Xiềng
xích liền tuột khỏi tay ông. Thiên sứ bảo ông thắt lưng và xỏ dép. Ông làm như
vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông khoác áo choàng vào và đi theo thiên sứ. Ông liền
theo ra mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình
thấy một thị kiến.” (Cv 12:6-9) Chuyện xảy ra ngoạn mục tưởng như chỉ có
trong phim ảnh, viễn tưởng, thế nhưng lại là chuyện có thật. Chính ông Phêrô
cũng không hề biết mình tỉnh hay mơ, nhưng hoàn toàn là sự thật.
Lính canh như ngủ mê, chẳng hề hay biết gì. Qua
vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông Phêrô tới trước cửa
sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết
một đường phố, bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn:
“Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã
cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê và khỏi mọi điều dân Do Thái mong muốn tôi
phải chịu.” (Cv 12:11) Sự thật minh nhiên. Thực tế thật 100% chứ không hề
là chiêm bao hoặc mộng ảo. Kỳ diệu quá! Quả thật, “đối với Thiên Chúa, không có
gì là không thể làm được.” (Lc 1:37)
Tục ngữ Việt Nam nói: “Ăn cây nào rào cây
nấy.” Đó là quy luật tất yếu trong cuộc sống đời thường. Về phương diện tâm
linh cũng không khác gì. Chúng ta lãnh nhận Ơn Chúa quá nhiều mà có lẽ ít khi
biết tạ ơn. Chắc hẳn rất cần noi gương Thánh Vịnh gia mà tự nhủ: “Tôi sẽ
không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn
tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi
ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và
Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:2-5) Nếu
được như thế thì Thiên Chúa rất vui lòng chúc lành cho chúng ta.
Là Thiên Chúa đại lượng, giàu lòng thương
xót, Ngài không làm ngơ những người thành tânm mến tin: “Ai nhìn lên Chúa sẽ
vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã
nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung
quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:6-8) Với kinh nghiệm
sống tâm linh, Thánh Vịnh gia chia sẻ và mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt
lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9) Không nhiều
thì ít, tín nhân nào cũng có cảm nghiệm riêng về sự ngọt ngào như vậy.
Nói được như vậy vì Thánh Phaolô hoàn toàn
tín thác vào Thiên Chúa, như thánh nhân đã tâm sự: “Nhưng có Chúa đứng bên
cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn
thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi
nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và
đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến
muôn thuở muôn đời.” (2 Tm 4:17-18) Các thư của Thánh Phaolô là kho tàng về
đời sống tâm linh, chúng ta có thể thấy mọi trường hợp mà hằng ngày chúng ta
vẫn gặp. Thánh Phaolô giỏi về kiến thức đời thường và giỏi cả kiến thức tâm
linh nữa, đồng thời cũng như một tâm lý gia vậy.
Kiếp phàm nhân nhiêu khê đủ thứ, giằng co đủ
kiểu, bởi vì cuộc đời là một cuộc chiến triền miên, liên lỉ, không nghỉ bao giờ.
Chính Thánh Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi
muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm.” (Rm 7:19) Chán thật đấy! Nhưng con người là thế, do đó mà phải nỗ lực từ bỏ chính mình để
có thể tiếp tục vác thập giá đời mình mà bước theo Đức Giêsu Kitô. Vấn đề là có
muốn hay không, chứ vác thập giá thì “oải” lắm, hiếm khi ngon trớn, thường thì cứ
kéo lê, có lúc còn ngã quỵ,… Mỏi lắm, mệt lắm! Chúa cũng biết thế, vì Ngài biết
hết mọi sự. (1 Ga 3:20) Thiên Chúa toàn năng luôn quan phòng và tiền định mọi
thứ, ngay cả từng sợi tóc trên đầu mỗi người chúng ta cũng đã được Ngài đếm cả
rồi. (Mt 10:30) Khổ không tránh đâu được, sướng không thể đòi hỏi. Chắc chắn
như thế!
Chính đau khổ đã biến đổi cả hai “lão tướng”
Phêrô và Phaolô. Thật vậy, đau khổ làm cho người ta có kinh nghiệm để “rút ra”
những bài học giá trị để có thể nên người – cả đời thường và tâm linh. Đau khổ
có giá trị kỳ diệu, thế nên chính Đức Kitô đã chịu đau khổ tới tột cùng để làm
gương cho chúng ta. Ngài đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chết để chúng
ta được sống dồi dào. Để có thể chịu đau khổ, người ta phải có niềm tin vừa lớn
vừa mạnh. Đó chính là loại “siêu vũ khí” để chúng ta tự tin mà chiến đấu hằng
ngày, như Thánh Gioan xác định: “Điều làm cho chúng ta THẮNG ĐƯỢC thế gian
là LÒNG TIN của chúng ta” (1 Ga 5:4). Quả thật, niềm tin rất kỳ diệu!
Chúa Giêsu muốn xác định đức tin của ông để
giao đại sự. Không chỉ vậy, Ngài còn đòi hỏi tình yêu chân thành của ông nên đã
ba lần hỏi ông có yêu mến Ngài hay không (x. Ga 21:15-19). Trình thuật Mt
16:13-19 nói về việc tuyên tín của Phêrô trước khi nhận trọng trách làm giáo
hoàng. TIN và YÊU là hai “luật buộc” để làm “cột trụ” trong đời sống tâm linh
của mỗi Kitô hữu. Đúng như người ta nói: “Vô tri bất mộ.”
Hôm đó, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành
Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ xem thiên hạ nói gì về Ngài. Hỏi là hỏi
thế thôi, chứ Ngài thừa biết tất cả. Vả lại, Ngài hỏi là để chúng ta tự xác
định niềm tin của chính mình. Sau khi nghe Thầy hỏi vậy, các ông thưa: “Kẻ
thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông
Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Mỗi người mỗi ý theo tầm nhìn riêng
của mình, khác nhau chứ chẳng ai giống ai.
Rồi Ngài hỏi ý kiến của các môn đệ. Vốn tính
cương trực, ông Simon Phêrô đại diện anh em thưa ngay: “Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống.” Đó là bản lĩnh – nghĩ sao nói vậy. Và Ngài nói
với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người CÓ PHÚC, vì không
phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên
trời.” Rồi Ngài xác định: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ KHÔNG thắng nổi. Thầy
sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy.”
Ngay lúc ông Phêrô “nhận” Chìa Khóa Nước Trời là lúc ông
trở thành giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội. Ngư phủ Phêrô thật diễm phúc,
nhưng trọng trách chẳng nhẹ: Chài lưới những con người về cho Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Đầu và là Cuối, xin thêm đức
tin và đức mến cho chúng con, xin ban Thần Khí để chúng con can đảm chiến đấu
mọi lúc và mọi nơi, xin đừng bỏ mặc khi chúng con yếu đuối nản chí khi gặp đau
khổ hằng ngày. Lạy nhị vị thánh nhân Phêrô và Phaolô, xin nguyện giúp cầu thay
và đồng hành với chúng con trong cuộc chiến đời này. Chúng con cầu xin nhân
danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
No comments:
Post a Comment
Comment