Trong năm 2014,
chúng ta có hai vị thánh giáo hoàng: Gioan XXIII (sinh 28-11-1881, triều đại
giáo hoàng từ 28-10-1958 tới 3-6-1963) và Gioan Phaolô II (sinh 18-5-1920,
triều đại giáo hoàng từ 16-10-1978 tới 2-4-2005). Niềm vui nối tiếp niềm vui, nay
chúng ta có thêm Thánh GH Phaolô VI (sinh 26-9-1897, triều đại giáo hoàng từ
21-6-1963 tới 6-8-1978). Thật hạnh phúc khi chúng ta được sống trong thời của
ba vị thánh giáo hoàng liên tiếp!
Khi ĐGH Phaolô VI
đương nhiệm giáo hoàng, tôi còn là thiếu niên nên chưa biết nhiều về ngài,
nhưng qua báo chí Công giáo hồi đó, tôi còn nhớ ngài đã được mệnh danh là “giáo
hoàng trầm tư.” Không dưng tôi cảm thấy… thích, dù chẳng hiểu gì sâu xa! Nếu
tôi nhớ không lầm thì hình như ĐGH Phaolô VI là người đầu tiên KHÔNG dùng mũ ba tầng và KHÔNG dùng kiệu trong ngày đăng quang.
Chắc hẳn đó là cách canh tân cần thiết.
Thánh GH Phaolô
VI sinh ngày 26-9-1897 tại Concesio (Lombardy), trong một gia đình thượng lưu,
với tên “cúng cơm” khá dài là Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini. Cha
ngài là luật sư nhưng lại làm biên tập viên báo chí và là người thúc đẩy hoạt
động xã hội. Cậu Giovanni là người yếu đuối nhưng thông minh, từ nhỏ cậu đã
được học với các linh mục Dòng Tên ở gần nhà tại Brescia. Ngay cả sau khi gia
nhập chủng viện (1916), cậu vẫn được sống tại gia đình vì lý do sức khỏe.
Ngài thụ phong
linh mục năm 1920 (mới 23 tuổi), sau đó ngài được gởi tới Rôma học tại ĐH Grêgôriô
và ĐH Rôma, nhưng năm 1922 ngài được chuyển tới Accademia dei Nobili
Ecclesiastici (Viện Giáo Sĩ) để học ngành Ngoại giao và vẫn học Giáo luật tại
ĐH Grêgôriô. Năm 1923, ngài được gởi tới Warsaw làm khâm sứ nhưng rồi lại được
gọi về Rôma (1924) vì mùa Đông Ba Lan lạnh quá khiến sức khỏe của ngài bị ảnh
hưởng, rồi ngài được bổ nhiệm làm Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và ngài giữ chức vụ
này từ 1922 tới 1954. Ngoài việc ngài dạy học tại Accademia dei Nobili
Ecclesiastici, ngài còn được bổ nhiệm làm tuyên úy cho FUCI (Federation of
Italian Catholic University Students – Liên minh Sinh viên Đại học Công giáo Ý),
do đó ngài ảnh hưởng mạnh tới các mối quan hệ của ngài với những người sáng lập
Đảng Dân chủ Kitô giáo (Christian Democratic Party) thời hậu chiến.
Tại văn phòng
Quốc vụ khanh, ĐHY Montini và ĐHY Domenico Tardini được coi là những vị thân
cận và ảnh hưởng nhất của ĐGH Piô XII. Năm 1954, ĐGH Piô XII đã bổ nhiệm
ĐHY Montini làm TGM của Milan, giáo phận lớn nhất Ý quốc, nhưng không thăng
chức cho ngài làm Hồng y theo truyền thống của TGP Milan, điều mà tự động ngài trở
thành Thư ký HĐGM Ý. ĐGH Gioan XXIII nâng ngài lên Hồng y năm 1958, và sau
khi ĐGH Gioan XXIII qua đời, ĐHY Montini được coi là một trong những người có
thể kế vị.
Khi được bầu làm
giáo hoàng, ĐHY Montini chọn Tông hiệu Phaolô VI để chứng tỏ canh tân sứ vụ thế
giới là loan truyền sứ điệp của Đức Kitô. Ngài tái mở Công đồng Vatican II, lý
do là Công đồng phải tạm ngưng vì ĐGH Gioan XXIII qua đời. Sau khi Công đồng bế
mạc, ĐGH Phaolô VI đảm trách việc giải thích và thực hiện sự ủy thác của Công
đồng, thường bước đi trong đường hẹp giữa các hy vọng đối lập của nhiều phe
nhóm trong Giáo hội Công giáo. Tầm quan trọng và chiều sâu của việc cải cách
ảnh hưởng mọi lĩnh vực trong đời sống Giáo hội trong triều đại giáo hoàng của ngài
đã phóng đại sự cải cách tương tự của người tiền nhiệm và kế vị.
Thánh Phaolô VI
là người sùng kính Đức Mẹ, thường nói về Đức Mẹ tại các buổi hội nghị và hội
thảo, thường viếng các Đền Đức Mẹ và ban hành ba tông thư về Đức Mẹ. Theo bước
vị tiền nhiệm ngài là TGM Ambrose của TGP Milan, ngài tôn vinh Đức Mẹ là Mẹ
Giáo Hội tại Công đồng Vatican II.
Khi sinh thời, ĐGH
Phaolô VI đã tìm cách đối thoại với thế giới, với người không là Kitô giáo, với
các tôn giáo khác và người vô thần, không loại trừ ai. Ngài tự nhận mình là người
tôi tớ khiêm nhường vì nhân loại đau khổ và đòi hỏi sự thay đổi nhiều ở người
giàu tại Hoa Kỳ và Âu châu để hỗ trợ người nghèo trong thế giới thứ ba. Ngài
đề cập vấn đề về hạn chế sinh sản (Tông thư Humanae Vitae – Sự Sống Con Người, ngày 24-7-1968) và các vấn đề
khác đã gây tranh luận tại Tây Âu và Bắc Mỹ, nhưng lại được hoan hô ở Đông
phương, Nam Âu và Mỹ châu Latin.
Triều đại giáo
hoàng của ngài ở trong giai đoạn thay đổi thế giới, sinh viên nổi dậy, chiến
tranh Việt Nam và các cuộc nổi dậy khác. Năm 1937, ngài được bổ nhiệm thay
thế về thường vụ dưới quyền ĐHY Quốc vụ khanh Pacelli, và ngài cùng ĐHY Pacelli
tới Budapest (1938) tham dự Hội nghị Thánh Thể Quốc Tế (International
Eucharistic Congress). Khi ĐHY Pacelli được bầu làm giáo hoàng năm 1939, với
Tông hiệu Piô XII, ĐHY Montini được tiếp tục giữ chức vụ dưới quyền tân Quốc vụ
khanh là ĐHY Luigi Maglione. Khi ĐHY Luigi Maglione qua đời năm 1944, ĐHY Montini
nghỉ chức vụ cũ. Trong Thế chiến II, ĐHY Montini đảm trách việc tổ chức công
việc cứu tế bao quát và chăm sóc người tị nạn chính trị.
Trong mật nghị năm
1952, ĐGH Piô XII tuyên bố ngài muốn đưa ĐGM Montini và ĐGM Domenico Tardini vào
Hồng y đoàn nhưng cả hai vị đều xin miễn. Nhưng ĐGH Piô XII đã phong cho hai vị
tước Đại diện Quốc Vụ Khanh (Prosecretary of State). Năm sau, ĐGM Montini được
bổ nhiệm làm TGM Milan nhưng vẫn không có tước hồng y. Ngài nhận nhiệm sở mới ngày
5-1-1955, và mau mắn được tiếng là “giám mục của giới lao động.” Ngài đổi mới
cả giáo phận, rao giảng các sứ điệp Phúc Âm về xã hội, cố gắng giành lại giới lao
động, thúc đẩy nền giáo dục Công giáo ở mọi cấp, và ủng hộ báo chí Công giáo.
Lúc này, ảnh
hưởng của ngài rất mạnh đến nỗi được thế giới chú ý. Tại mật viện năm 1958, tên
ngài thường được nhắc tới, và tại mật nghị đầu tiên bầu được ĐGH Gioan XXIII hồi
tháng 12-1958, ngài là một trong 23 hồng y có thể đắc cử giáo hoàng, mà tên
ngài luôn đứng đầu danh sách. Ngài đáp lại lời kêu gọi mở Công đồng ngay lập
tức và trước khi nhóm họp, ngài đã được chọn làm cố vấn về quy chế hội nghị. Ngài
được bổ nhiệm làm Ủy viên Chuẩn bị Chính yếu (Central Preparatory Commission) cho
Vatican II và là Ủy viên Tổ chức Kỹ thuật (Technical-Organizational Commission).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment