Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

Á TẾ Á CA

Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.

Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.

Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước cu-li.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.

Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.

Thuế các chợ, thuế chè, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.

Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.

Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.

Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.

Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.

Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.

Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.

Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao?

PHAN BỘI CHÂU

+ Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San (1867–1940, sinh tại Nghệ An nhưng mất tại Huế), vì San trùng với tên húy vua Duy Tân (Vĩnh San) nên phải đổi thành Phan Bội Châu. Hai chữ “bội châu” (佩珠) trong tên của ông lấy từ câu: 城中蛾眉女珠佩何珊珊 [Thành trung nga mi nữ châu bội hà san san]. Ông có hiệu là Hải Thụ, về sau đổi là Sào Nam. Tên gọi Sào Nam (巢南) được lấy từ câu 越鳥巢南枝 [Việt điểu sào nam chi nghĩa là Chim Việt làm tổ cành Nam]. Ông có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán,...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment