Có nhiều dạng khát – bao gồm cả nghĩa đen và
nghĩa bóng, nhưng có lẽ mạnh mẽ và ray rứt nhất là dạng “khát tình.” Thật vậy,
chính Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên trong những giây phút cuối cùng: “TÔI KHÁT!” (Ga 19:28) – khát cả thể lý
lẫn tinh thần.
Tam Nhật Vượt Qua là “đỉnh cao” của Mùa Chay,
còn gọi là Tam Nhật Thánh (Triduum). Trong đó, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày
Đại Tang, là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 15 giờ), giờ
của Lòng Chúa Thương Xót.
Khoảnh khắc hấp hối là “phút cuối” của một
con người, là lúc lắng đọng và xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu
hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại
từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người
phải la hét dữ dội. Phút cuối là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong tích tắc,
nhưng lại nặng nề trôi… Và phút cuối là lúc người ta bịn rịn nhất, cũng là lúc nói
thật nhất của một con người.
Đối với Chúa Giêsu, Ngài có 2 bản tính: Thần
tính và nhân tính. Và theo nhân tính, Ngài nên giống chúng ta mọi sự – trừ tội
lỗi. Tất nhiên Ngài cũng rất đau đớn và rời rã vì kiệt sức do đòn roi, phải tự vác
Thập giá lên đồi, té lên té xuống nhiều lần, chịu đói khát, bị những gai nhọn
đâm thấu đầu, bị đinh ghim chặt chân tay và lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn,
không thể tưởng tượng nổi, đến nỗi thân xác Ngài chảy ra đến giọt Máu và giọt
Nước cuối cùng. Thật thê thảm!
CHIÊN CON HIỀN LÀNH
Chiên con là “cừu nhỏ” – chỉ 1 năm trở xuống,
còn cừu là “chiên lớn” (hơn 1 năm trở lên). Chiên con không chỉ nhỏ bé, ngây
thơ, mà còn hiền lành. Khi nói về Chiên Thiên Chúa, Đức Chúa đã mô tả: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành
đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã
sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn
dáng vẻ người ta nữa.” (Is 52:13-14 – Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung) Mặc
dù vậy, mọi người vẫn phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Chính Người-Tôi-Trung
đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng.” (Is 52:15) Người-Tôi-Trung
đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, “như chiên bị đem đi làm
thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca.” (Is 53:6; Cv
8:32)
Ngày nay, chúng ta đã được biết về “hành
trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ
trong cuộc khổ nạn tang thương của Ngài, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen
tai nên cảm thấy… bình thường, và cũng cho đó là “chuyện nhỏ.” Có thể có người đặt
vấn đề: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin
được?” (Is 53:1) Đúng là khó tin thật, thế nhưng đó lại là sự thật minh
nhiên, không thể chối cãi!
Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia mô tả: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây
trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng
còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa
thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi
bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi,
không đếm xỉa tới.” (Is 53:2-3) Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những
bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta
lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.” (Is
53:4) Thật là nghịch lý quá, có lẽ vì chúng ta ảo tưởng quá chăng?
Ngôn sứ Isaia đưa ra bảng đối chiếu và liệt
kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm VÌ chúng
ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát VÌ chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị ĐỂ chúng
ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích ĐỂ chúng ta được chữa lành.”
(Is 53:5) Bốn “cặp đối” rất tuyệt vời, chứng tỏ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Chắc chắn trí óc loài người chúng ta không thể tưởng tượng nổi có một Con Người
lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là
“dại dột,” là “ngu xuẩn,” là “điên khùng,” là “mất trí,” là “tâm thần.” Thiên
Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả,”
nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người
Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng
hề mở miệng.” (Is 53:6) Người Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu.”
(Is 53:8a) Thậm chí “Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,” và “vì tội
lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt.” (Is 53:8b) Người Ấy bị hàm oan chỉ vì
chúng ta quá khốn nạn!
Và cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa
bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng
không hề nói chuyện điêu ngoa.” (Is 53:9) Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của
Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính,
tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi
của họ.” (Is 53:11) Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng
tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những
kẻ tội lỗi.” (Is 53:12) Trong “núi tội” đó có nhiều tội của mỗi chúng ta!
Qua miệng lưỡi của Thánh Vịnh gia, Người Ấy đã
nói lời cuối của Con Người hấp hối: “Con
ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài
công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài
đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.” (Tv 31:2 & 6) Người Ấy tâm
sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên
trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh
hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không
người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ.” (Tv 31:12-13) Là con người
thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên
nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở
trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con.”
(Tv 31:15-16)
Dù cho thế nào thì Người Ấy vẫn chấp nhận mọi
thiệt thòi, vui chịu chứ không cam chịu, và thành tâm cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ
Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ,” (Tv 31:17) đồng thời mạnh dạn chia
sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi
mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25) Người
Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết
rằng nó đã ghét Thầy trước.” (Ga 15:18)
Lời minh định của Thánh Phaolô rất rạch ròi: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã
băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.” (Dt 4:14) Thánh
Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách
về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy
mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và
lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:15-16) Trong tất cả các ân sủng, Lòng
Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chính Chúa Giêsu đã trải
qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta, những con người còn
phải đối mặt với đủ loại “khổ não trần ai” của kiếp này.
Lúc còn sinh thời của kiếp phàm nhân, Đức
Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin
lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn
kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa,
ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế
nào là vâng phục.” (Dt 5:7) Thật không hề đơn giản chút nào khi phải miệt mài
chịu đau khổ như vậy!
Tuy nhiên, chính lúc đó lại là lúc bản thân đạt
tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả
những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5:9) Trước khi vinh quang và được coi là công
trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua
“chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang. Chúng ta
không thể không “nhâm nhi chén đắng” để trải nghiệm đau khổ. Không có hạnh phúc
nào không có đau khổ, thiếu vắng hy sinh. Chắc chắn không thể cứ tà tà mà được tận
hưởng.
Thánh Gregorio Khandzta (759-861, người thành
lập nhiều cộng đoàn tu trì tại Tao-Klarjeti, thuộc Tây Nam Georgia) đã tha thiết
cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã BỊ
CÁM DỖ và CHỊU ĐAU KHỔ. Ngài là Đấng quyền năng đã đến để CỨU GIÚP những người
đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Ngài luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài. Lạy
Chúa, xin GÌN GIỮ những kẻ tin vào Danh Thánh Ngài trong cánh tay Ngài. Xin chớ
để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt.”
CHIÊN CON BỊ GIẾT
Trình thuật Phúc Âm hôm nay là tấn bi kịch,
là bộ phim dài sầu thảm, Giáo Hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là
Tin Mừng, quả thật là điều kỳ diệu!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra.” Một trong 12 môn đệ “ruột” là Giuđa đã
dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo. Người ta lục
soát, tìm cách gài bẫy và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và
sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “ghế,” thế nên họ làm mọi cách để
hạ nhục Ngài đủ kiểu. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà
họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm
Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay
không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Ngài hỏi: “Các
anh tìm ai?” thì họ đáp: “Tìm Giêsu
Nadarét.” Ngài vừa nói “chính tôi đây” thì họ lùi lại và ngã xuống đất.
Ngoạn mục thật! Có lẽ lúc này Giuđa đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin
rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông
lại có tiền tiêu xài. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện
không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài!
Ngài lại hỏi họ muốn tìm ai. Họ vẫn cương
quyết là tìm Giêsu Nadarét, họ không hề thấy tởn chút nào. Lì thật! Đức Giêsu thản
nhiên xác nhận: “Tôi đã bảo các anh là
chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.”
(Ga 18:8) Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng
nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha
đã ban cho con, con không để mất một ai.” (Ga 18:9) Tính nóng hơn Trương
Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi”
một phát đứt tai phải của Mankhô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy
vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ
gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”
(Ga 18:11) Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Cơn tức giận dâng cao, nỗi hận thù đầy ắp, họ
liền bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan – nhạc phụ ông Cai-pha. Năm
đó ông Cai-pha làm thượng tế. Chính ông này đã nói với người Do Thái một đề
nghị tồi tệ: “Nên để một người chết thay
cho dân thì hơn.” (Ga 18:14) Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm
độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu.
Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế.
Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng,
rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!
Thế nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận
ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Không phải đâu!” Và ông chối phắt bất
kỳ ai nhận ra ông, tổng cộng 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên
ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Thật tội
nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó
là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay. Buồn thế đấy!
Tuy Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập,
bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói chi cả, không
tự biện minh cho mình là đúng, cũng chẳng một lời kêu oan hoặc oán trách. Chiên
Con hiền lành lắm!
Mãi tới lúc bị tra hỏi về các môn đệ và giáo
huấn – nghĩa là liên quan người khác, Ngài mới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội
đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì
lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe
tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” (Ga 18:19-21) Ngài vừa dứt lời thì một
tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh
trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga 18:22) Hỗn láo và ngang ngược thật! Ngày
nay người ta cũng hống hách kiểu như vậy khi đối xử với đồng loại. Mặc dù bị xử
tệ, Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi
nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại
đánh tôi?” (Ga 18:23) Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá.
Và tất nhiên họ phải câm họng thôi!
Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng
tế Caipha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị
nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú
trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài
gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng
tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” (Ga 18:30) Họ cố chấp và cố tình không thèm
nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi
Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do
Thái không?” Đức Giêsu không trả lời đúng hay sai, mà bình thản nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu
Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị
nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga
18:36) Ui da, thế mà lão Philatô vẫn không hiểu ất giáp chi cả, mà còn hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu ôn tồn: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh
ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía
sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Ông Philatô tỏ ra ngớ ngẩn nên hỏi:
“Sự thật là gì?” (Ga 18:38) Đúng là “dốt
đặc cán mai” mà!
Vào dịp lễ Vượt Qua và theo tục lệ Do Thái, người
ta thường ân xá cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay
không, họ liền la to: “Đừng tha nó, nhưng
xin tha Baraba!” (Ga 18:40) Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ
còn thương và quý hơn là Chúa Giêsu – dù chính Philatô hai lần xác định là Chúa
Giêsu “không có tội gì.” (Lc 23:4 và 22)
Và rồi Philatô truyền đem Ngài đi mà đánh
đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi
mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”
và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài
bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa
Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà
thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng:
“Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga
19:6) Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta
không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” (Ga 19:6) Một người nắm quyền
trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, thì quả là bất
tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà
chà đạp người khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người
đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không đề cao nhân vị, nhân
phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói gì thì nói, Chúa Giêsu vẫn im lặng.
Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với
đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị
cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Bất nhân quá! Nhân quyền của Ngài
hoàn toàn bị tước đoạt. Nhưng Ngài nói thẳng với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu
Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
(Ga 19:11) Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài,
nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng.
Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta
ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô đành cho thi hành án
tử đối với Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập giá lên đồi Gôn-gô-tha, nghĩa là
Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Canvê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài
có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu
Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ:
Hípri, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân
Do Thái,” nhưng ông Philatô nói: “Ta viết
sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Tấm bảng đó nhằm mỉa mai nhưng chính nó lại là
lời xác nhận công khai rằng “Chúa Giêsu là Vua dân Do Thái.” Lão Philatô chỉ
lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù
họ chỉ là đám dân đen. Hèn!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ
chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc
đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho
Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Nhưng người ta lại
nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức
Giêsu nói: “Tetelestai! Mọi sự đã hoàn
tất!” (Ga 19:30) Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí. Tang thương
bao trùm, đất trời rung động!
Sự kiện bi thương hôm nay là “nghi lễ của mọi
nghi lễ,” là “hiến lễ của mọi hiến lễ,” là “thánh lễ của mọi thánh lễ.” Vì thế
Giáo Hội không cử hành thánh lễ hôm nay mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính
Thánh Giá và rước lễ.
Thiên Tình Giêsu là “tình cho không biếu
không,” nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là
tội nghiệp chính mình. Thật vậy, khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm
ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, chính Ngài
đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành
Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho
con cháu.” (Lc 23:28) Chính chúng ta mới là những kẻ đáng phải khóc thương!
Và có một điểm khác mà chúng ta cần lưu ý là
“tính a dua,” như người ta thường nói: “Người
ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo.” Kiểu này rất
nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó.
Cần chấn chỉnh và cần can đảm là chính mình, đặc biệt là phải biết khát và nhận
ra cơn khát của người khác để cố gắng giúp họ thỏa cơn khát!
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chính con là kẻ khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt
lành hơn người khác, con đã hèn nhát khi a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ
tưởng mình chân chính hơn người khác. Hôm nay, con chân thành nhận lỗi, xin lỗi
Ngài và xin lỗi mọi người. Xin Ngài thương xót con mà đại lượng ban cho con
được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh
Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment