Trong Giáo hội Đông phương, lễ Đức Mẹ được thụ thai có từ thế kỷ VII, truyền sang Tây phương hồi thế kỷ VIII. Thế kỷ XI, lễ này chính thức có tên là Vô nhiễm. Thế kỷ VIII, lễ này trở nên phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Các giáo phụ và các Tiến sĩ Giáo hội coi Đức Maria là vị thánh vĩ đại và thánh thiện nhất, nhưng vẫn cho rằng Đức Mẹ khó mà vô nhiễm tội truyền. Và rồi năm 1854, ĐGH Piô IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô nhiễm. Thánh Bênađô và Thánh Thomas Aquinas cũng không thể coi là sự biện hộ thần học đối với giáo huấn này.
Hai tu sĩ Dòng Phanxicô là William Ware và Gioan Duns Scotus (Chân phước) đã giúp phát triển thần học này. Họ chỉ ra rằng ơn Vô Nhiễm của Đức Maria làm nổi bật công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Nhân loại được khỏi Nguyên Tội khi lãnh nhận Bí tích
Thánh Tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ khi ngăn ngừa
Nguyên Tội.
Khi
Đức Mẹ hiện ra lần thứ mười bốn vào ngày 3-3-1858, sau khi lần Chuỗi Mân Côi,
Bernadette thay mặt Lm Peyramale hỏi Đức Mẹ tên gì. Đức Mẹ chỉ tươi cười. Đến
ngày 25 tháng Ba, lễ Truyền Tin, Bernadette cho biết: “Đã ba lần tôi hỏi bà
là ai. Bà chỉ mỉm cười thôi. Tôi lại hỏi lần nữa. Lần này Bà ngước mắt lên
trời, chắp tay như cầu nguyện, và nói: Ta là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Vô nhiễm Nguyên tội. Danh xưng tuyệt
vời biết bao! Bernadette không thể biết rằng “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là tín điều
sẽ được ĐGH Piô IX tuyên bố vào 4 năm sau đó! Bernadette cố gắng ghi nhớ từ ngữ
“Vô Nhiễm Nguyên Tôi” nên cứ lặp đi lặp lại để về nói với Lm Peyramale. Lần
này, Lm Peyramale đã tin. Ngài xúc động vì sự giản dị và khiêm nhường của
Bernadette. Lm Peyramale nói: “Bụi
hoa hồng không trổ bông, nhưng nước đã vọt lên.”
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment