Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ
tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng
Phanxicô. Sau 4 năm, ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp Chân
phước Maria Angela Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.
Ngài làm người gác cổng ở tu viện Warsaw
năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh hướng và giải tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.
Cuộc nổi dậy chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn áp các nhà dòng ở Ba
Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi
Warsaw và phải đến sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập 26 dòng nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung, họ hoạt động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày nay.
Các tài liệu viết của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp
các thư, có tới 52 tác phẩm về
thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, về lịch sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội
dòng ngài đã thành lập.
Năm 1906, nhiều giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này
dưới quyền mình, nhưng Chân phước Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc
giục các hội dòng vâng lời giáo hội.
Một người đương thời nói: “Ngài
luôn bước đi với Chúa”. Năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng đại diện Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên chân phước năm 1988.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment