Da Vàng Bất Khuất Vững Tin Cậy Chúa
Máu Đỏ Hào Hùng Hằng Mến Yêu Ngài
Tình liên quan Tim, Tim liên quan Máu. Cái trừu
tượng (tình) mà lại không thể tách rời cái cụ thể (tim và máu). Thật kỳ diệu!
Máu là chất lỏng bình thường mà khác thường.
Bình thường vì máu chỉ là một trong các loại chất lỏng, khác thường vì máu
giúp duy trì sự sống. Người ta có Ngân Hàng Máu, và rất cần những người hiến
máu. Những Giọt Hồng bình thường đó trở thành những Giọt Tình, trao tặng sự
sống cho người khác. Thật đẹp biết bao!
Với ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Máu duy
trì sự sống bằng cách không ngừng từ Trái Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống –
chuyển giao đi khắp cơ thể. Máu có vài loại máu, nhưng chung quy vẫn là sự
sống. Tim còn đập là còn sự sống, tim ngừng đập là chết. Máu có màu đỏ tươi,
màu của Tình Yêu Thương. Sự Sống và Yêu Thương chính là hiện thân của Thiên
Chúa – Đấng là Nguồn Sống và Tình Yêu.
Y học cho chúng ta biết rằng có khoảng 46
nhóm khác nhau, nhưng những nhóm chính
là O, A, B, AB và yếu tố Rhesus (Rh, có Rh+ và
Rh-). Trong đó, máu O có thể cho bất cứ loại máu nào nhưng chỉ nhận cùng loại
máu; còn máu AB có thể tiếp nhận mọi loại máu. Vì những lý do chưa được khám
phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Một
nhóm máu hoàn chỉnh có thể bao gồm một bộ 30 chất trên bề mặt của các RBC (red
blood cell – hồng cầu), và một nhóm máu của cá thể là một trong những sự kết
hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số 30 nhóm máu, có hơn 600 chất
kháng nguyên (phân tử kích thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể, sản sinh kháng
thể) nhóm máu khác nhau đã được phát hiện, nhưng đa số trong chúng rất hiếm
hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhât định.
Chắc chắn rằng sự sống rất quý giá, nhưng mỗi
người chỉ có một cuộc đời, một lần sống, hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan
hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng” – vừa giả tưởng vừa ảo
tưởng. Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai
cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt
số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo.
Ai cũng chỉ có một lần sống, và tất nhiên
cũng chỉ có một lần chết. Phải sống sao cho có ý nghĩa thì cũng phải chết sao
cho hợp lý. Có điều rất lạ: Trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ tử đạo,
chấp nhận máu đổ ra để minh chứng Đức Tin, trừ người-môn-đệ-Chúa-yêu là Gioan
và tông đồ phản bội là Giuđa Ítcariốt. Cái chết oanh liệt đó là Mối Phúc thứ
tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống
công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10)
Chính Chúa Giêsu còn nói thêm để tái xác định
và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì
Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui
mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy,
các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.”
(Mt 5:11-12)
Thời gian bị bách hại, Giáo hội tại Việt Nam vẫn
như đứa trẻ mới thôi nôi, còn nhỏ bé nhưng kiên cường bất khuất trước bạo
quyền. Trải dài khoảng 300 năm, qua sáu triều vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh
Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, Giáo hội tại Việt Nam bị bách hại triệt để, nhưng
hơn một trăm ngàn người đã minh chức hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn mạnh. Tiền
nhân của chúng ta chịu tra tấn đủ kiểu – nào là “bào cách” (trói vào cột lửa
cho đến chết), nào là “tẫn hình” (cắt xương bánh chè), nào là “xử giảo” (treo
cổ), nào là “lăng trì” (tùng xẻo, lóc thịt theo tiếng cồng chiêng), và còn
nhiều cách khác như xỏ mũi, xâu tai, phanh thây, voi giày, ngựa xéo,...
Những người thủ ác dụ đủ chiêu, nói rằng cứ
giả vờ bước qua Thánh Giá, nhưng tiền nhân dứt khoát không giả vờ. Họ còn dụ
rằng ông Phêrô chối Chúa ba lần mà còn được chọn làm trưởng Hội Thánh, nhưng
tiền nhân cũng không xiêu lòng. Đó là bài học sống đức tin cho chúng ta hôm
nay: Đặt mình trước Thánh Giá và quyết tâm chọn lựa dứt khoát như Thánh Phaolô:
“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì,
ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Gl 6:14)
Thật vui mừng vì ngày nay người ta đã bắt đầu
yêu quý sự sống, điều này được thể hiện qua chương trình Hiến Máu Nhân Đạo. Đó
là tín hiệu tốt. Hoạt động này thực sự đáng trân trọng. Hiến máu có hai cái
lợi: Một là cứu sống người, hai là chính mình được thay máu mới và sẽ tránh béo
phì, sức khỏe sẽ tốt hơn. CHO mà KHÔNG HẾT, càng CHO càng có LỢI. Thật tuyệt
vời!
Theo lịch sử, từ thế kỷ 17 tới 19, Việt Nam
theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua là thiên tử (con trời) nên có toàn quyền
sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung.” Nho giáo quan niệm như vậy. Vua cho sống thì được sống, bắt
chết thì phải chết, ai không chết là bất trung. Các vị Tử đạo Việt Nam đã giới
thiệu một nền dân chủ trong đó người dân làm chủ đất nước, vua chỉ là người đại
diện Thiên Chúa điều hành đất nước mà thôi, và mọi người đều là anh em với
nhau, theo kiểu nói “huynh đệ chi binh”. Không ai có quyền sát nhân vì Thiên
Chúa là Chủ nhân của sự sống, nhưng chính Đức Giêsu đã chết cho nhân loại, dù
Ngài là Thiên tử. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chính phủ nào không vì dân thì
không thể tồn tại. Dân làm chủ đất nước chứ không phải vua chúa hoặc tổng
thống, chính quyền. Thế nên các thánh nhân đã can đảm chết cho giá trị của Nền
Dân Chủ cao quý để bảo vệ Chân Lý và Công Lý.
Vào thời kỳ đó, xã hội Việt Nam theo chế độ
đa thê: “Trai thì năm thê bảy thiếp, gái
chính chuyên chỉ có một chồng.” Nho giáo quan niệm là “nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô” (một con trai kể là có, mười con gái kể là không), phận nữ nhi
thiệt thòi quá! Còn nữa, vua chúa thời đó thích ai thì có quyền “bắt” về làm
thiếp. Cô gái nào “bị lọt vào mắt xanh” của nhà vua thì coi như chôn vùi cuộc
đời nơi cung cấm. Chế độ quân chủ thật ích kỷ, tham lam và tàn nhẫn! Các thánh
nhân đã giới thiệu chân giá trị của Tin Mừng là “một vợ, một chồng” và chung
thuỷ trọn vẹn suốt đời theo lệnh truyền của Đức Kitô. (Mt 19:6; Mc 10:9) Các thánh
nhân thẳng thắn giới thiệu giá trị của sự bình đẳng nam nữ, tất cả đều do Chúa
dựng nên với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền – nghĩa là không ai hơn ai,
hoàn toàn bình đẳng.
Một sự thật minh nhiên là chính người Công
giáo “sáng chế” ra chữ Quốc Ngữ, ông tổ là Lm Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ,
sinh 15-03-1591, mất 05-11-1660), nhà truyền giáo người Pháp, Dòng Tên. Gia Định
Báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất hiện tại miền Nam Việt Nam vào năm 1865.
Thời đó, lý lịch ai là Công giáo ghi trong sổ dân đinh thì sẽ gặp đủ chuyện rắc
rối, không được học hành, thi cử, buôn bán… và còn bị thích hai chữ “tả đạo”
trên trán. Thế nhưng người Công giáo vẫn không sợ gì. Khi khó khăn quá, họ trốn
vào núi rừng sâu thẳm như ở Trà Kiệu, La Vang,... và tìm cách mưu sinh qua ngày.
Gay go nhất là thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Thời kỳ đó đã có hàng
trăm ngàn vị tử đạo. Người Công giáo ở cả miền Bắc và miền Trung đều bị bách
hại đủ kiểu, vì thế họ đã tìm cách di cư vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên
Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 07-1954.
Ai theo Đức Kitô đều bị người ta ghen ghét,
đúng như Ngài đã nói trước: “Người ta sẽ
nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ
bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy.” (Mt 24:9; Mc 13:9; Lc 21:12) Mỗi
thời có kiểu bách hại riêng, càng ngày càng tinh vi hơn. Thời Cựu Ước, sách
Macabê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua Antiôkhô cho lấy
roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Môsê cấm.
Thật tuyệt vời vì bà mẹ này là người rất đáng
khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Chính mắt bà thấy bảy người con trai phải chết
nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà
đặt nơi Đức Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng
là bà yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chỉ là lời lẽ của một phụ nữ, nhưng lại đầy
chí khí nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ
ban cho các con hơi thở và sự sống, cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể
cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài
người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng
sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ
của Người hơn bản thân mình.” (2 Mcb 7:22-23) Lý lẽ đầy xác tín và tràn trề
hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người không có niềm tin Kitô giáo chắc hẳn
cho ai hành động như vậy là ngu xuẩn, là điên rồ.
Sau đó, bà mẹ này nghiêng mình về phía con
trai, vẫn hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với con trai: “Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu
mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin
con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa
đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng
sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái
chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ.” (2
Mcb 7:27-29) Là nữ nhi, phận liễu yếu đào tơ, nhưng đức tin của bà rất vững
vàng!
Ôi, những lời lẽ của bà chứa đầy kiến thức
Kitô giáo và tràn đầy Thần Khí. Bà phân tích giản dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ
cứng rắn và rạch ròi. Thật đáng khâm phục một nữ nhi mà có tấm lòng rắn như
thép. Hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam cũng đã từng không “tham sanh, úy tử”,
không chịu “giá áo, túi cơm,” không hèn nhát trước những ác nhân, mà vẫn hiên
ngang làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô đến giọt máu cuối cùng!
Bao giờ cũng thế, các tôi trung luôn đặt trọn
niềm vui và hy vọng vào Thiên Chúa, hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Họ đã THEO ĐẠO
và cương quyết GIỮ ĐẠO, đặc biệt là can đảm SỐNG ĐẠO dù bị cấm cản đủ cách. Chuyện
tất yếu như một quy-luật-muôn-thuở: “Ai
nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.” (Tv 126:5) Chắc
chắn là vậy. Các vị tử đạo đã “nhìn thấy” phía sau những gì đang xảy ra với
chính mình trong giây phút hiện tại: “Họ
ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai
nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:6) Hy vọng của họ bừng sáng mà không ai hoặc
không gì có thể dập tắt!
Với kinh nghiệm dày dạn của bản thân, Thánh
Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ
chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa
cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người
Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc
tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công
chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống
lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày
chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.” (Rm 8:31-36) Theo
tầm-nhìn-thế-gian, gian truân và nguy hiểm là những chướng ngại vật phải tránh
cho xa, càng tránh được nhiều thì càng tốt. Nhưng theo tầm-nhìn-Kitô-giáo,
những thứ đó không là chướng ngại vật mà là “đòn bẩy” đưa người ta lên cao vút,
tới tận nơi Thiên Chúa ngự.
Tiếp tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn
thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự
chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc
bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào
khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện
nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:37-39) Thật đúng như vậy, đơn
giản như đôi nam nữ yêu nhau, cha mẹ càng cấm thì họ càng yêu nhau mãnh liệt. Có
những người “yếu bóng vía” và không có niềm tin Kitô nên họ đã tự tử. Tuy
nhiên, người thất tình là người yêu mạnh lắm. Và thật lạ, đại văn hào Victor
Hugo (1802-1885, Pháp) đã nhắn nhủ: “Ai
khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa. Chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chỉ có
những người yêu thật mới khả dĩ hiểu nổi, không thì sẽ cho là “bị chạm thần
kinh” ở cấp độ nặng!
Như chúng ta biết, thời nào cũng có bách hại tôn
giáo, chỉ khác ở cách thức và mức độ. Ngày xưa, Đức Giêsu đã tiên báo những
cuộc bách hại: “Hãy COI CHỪNG người đời.
Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường
của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm
chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Ngài biết chúng ta
sẽ lo lắng nên Ngài căn dặn: “Khi người
ta nộp anh em thì anh em ĐỪNG LO phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ
đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, KHÔNG PHẢI chính anh
em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:17-20) Chúa
Thánh Thần luôn hoạt động mọi nơi, mọi lúc, và trong mọi người. Một sự thật vừa
minh nhiên vừa mặc nhiên, và chỉ những ai có đức tin vào Đức Kitô mới khả dĩ
hiểu được điều này.
Tất cả những người yêu mến Chúa, bất luận
nam-phụ-lão-ấu, đều bị chống đối và bị ghét bỏ bằng cách nào đó, không chỉ đối
với người ngoài mà đối với cả những người thân và bạn hữu, thậm chí là ngay
trong gia đình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp
anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và
làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng
kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Máu của
các vị tử đạo đúng là Máu Đào thực sự. Đó là những Giọt Tình vô giá!
Khi thấy những chuyện xảy ra như vậy có vẻ lạ
lùng, nhưng thực ra cũng chỉ là chuyện bình thường, sự thể vốn dĩ như vậy. Vấn
đề là chúng ta có can đảm sống đúng theo lý tưởng Đức Kitô hay không. Đó cũng
là một dạng tử đạo: Tử đạo liên lỉ từng ngày trên đường lữ hành trần gian. Tử
đạo kiểu nào cũng có cái khó khăn riêng, chẳng có cách tử đạo nào dễ dàng!
Muôn
lạy Thiên Chúa là Nguồn Sống, xin giúp con biết duy trì và bảo vệ sự sống mà
chính Ngài trao ban. Sự sống là của Ngài, nhưng khi cần thiết, xin giúp con can
đảm sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Thánh Danh Ngài.
Vạn
lạy chư vị tiền nhân tử đạo của non sông Việt Nam, xin thương nguyện giúp cầu
thay, nâng đỡ con trên hành trình đức tin để con luôn sống xứng đáng là tử tôn
của các ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
PHÉP LẠ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Ngày 8-5-1902, núi lửa “thức giấc” ở Mount Pelée trên đảo Martinique tại vùng Caribê làm mất một phần mười làng Saint-Pierre (Thánh Phêrô) và lan tới làng Morne Rouge.
Hôm đó là ngày lễ Thăng Thiên, tín hữu Công giáo quy tụ tại nhà thờ và lo sợ về núi lửa dữ dội. Mọi người rất sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, cha xứ đặt Mình Thánh Chúa trên bàn thờ để mọi người tôn kính.
Ai cũng muốn xưng tội lần cuối và sốt sáng cầu nguyện cho sự sống của mình, họ nhìn lên và thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiện ra nơi Bánh Thánh. Họ thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu có vòng gai và những giọt Máu Thánh chảy ra. Cuộc hiện ra kéo dài vài giờ, rất nhiều người chứng kiến phép lạ này. Dân làng đã thoát chết hôm đó và có cơ hội giao hòa với Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải.
Nhưng vài tháng sau, ngày 30-8 năm đó, một vụ núi lửa phun lại xảy ra làm nhiều người chết tại làng Morne Rouge. Dân làng Saint-Pierre tin rằng Thiên Chúa đã cứu sống họ vào ngày 8-5 để họ có thời gian giao hòa với Thiên Chúa. Thay vì coi đó là sự nổi giận của Thiên Chúa, họ tin rằng đó là lòng thương xót và họ càng sùng kính Thánh Tâm Chúa nhiều hơn sau sự kiện khủng khiếp đó.
TRẦM THIÊN THU (theo aleteia.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment