Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2017

VẠ TUYỆT THÔNG và CỘNG SẢN

VẠ TUYỆT THÔNG CỦA GH CÔNG GIÁO DÀNH CHO NGƯỜI CỘNG SẢN
Hợp tác với Cộng Sản là đương nhiên bị khai trừ khỏi Giáo Hội.
Học thuyết Cộng Sản (CS) là một quái thai của nhân loại trong thế kỷ 19 và 20. Bất cứ cá nhân nào, tổ chức xã hội nào, quốc gia nào hoặc tôn giáo nào cũng đều có bổn phận và trách nhiệm tiêu diệt cái quái thai này, để bảo vệ thế giới của con người, vì học thuyết CS không nhằm phục vụ con người mà nhằm tiêu hủy con người.
Các quốc gia Đông Âu đã nhận ra điều này và đã thành công trong việc tiêu trừ nó vào trước lễ Giáng Sinh năm 1989. Điều trớ trêu và đáng buồn là hiện nay trên thế giới chỉ còn 4 quốc gia theo chủ nghĩa CS và Việt Nam lại là một trong số những quốc gia ấy: Trung Cộng, Cuba và Bắc Hàn.
Ngay khi tà thuyết CS ra đời, Giáo Hội Công Giáo (GHCG) là một trong những tôn giáo đã chống lại nó một cách mạnh mẽ nhất. Đức Giáo Hoàng Piô XII vào năm 1949 đã ra Sắc Luật chống chủ thuyết Cộng Sản và tuyên bố áp đặt vạ tuyệt thông cho tất cả những người Công Giáo nào hợp tác với các tổ chức Cộng Sản (The Decree against Communism is a 1949 Catholic Church document (by Pope Pius XII) which excommunicates all Catholics collaborating in communist organizations.) Sắc Luật này đã tạo nên một hậu quả khủng khiếp nhất chưa hề có trong lịch sử GHCG là số người bị khai trừ khỏi GH lên tới cả triệu người. Dù biết rõ hậu quả như vậy, nhưng GH vẫn tiến tới, vì hai học thuyết Công Giáo và Cộng Sản không thể đội trời chung với nhau.
Tưởng cần nhắc lại là Sắc Luật nghiêm khắc này chỉ là để thi hành một Thông Điệp chống Cộng đã có từ năm 1937, với tên là “Divini Redemptoris” (Của Đấng Cứu Thế Thần Linh).
Vào ngày 15-7-1948, báo L'Obsservatore Romano, cơ quan ngôn luận chính thức của Toà Thánh đã đăng tải một Sắc Luật chống Cộng, nhằm công bố vạ tuyệt thông cho tất cả những ai “tuyên truyền các học thuyết Cộng Sản nhằm cổ võ thuyết duy vật và chống báng Kitô giáo”. Vào thời điểm đó, Sắc Luật có chủ đích ra vạ tuyệt thông cho các đảng viên Đảng CS Ý.
Có thể nói: ngược dòng lịch sử GHCG suốt 100 năm qua, các vị Giáo Hoàng Piô IX, Lêô XIII, Thánh Giáo Hoàng Piô X, Piô XI, Piô XII, Gioan XXIII, Phaolô VI, Công Đồng Vatican II và Đức Gioan Phaolô II đều liên tục lên án chế độ Cộng Sản một cách mãnh liệt. Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ban hành án vạ tuyệt thông cho Fidel Castro, lãnh đạo cuộc Cách Mạng CS Cuba mà CSVN vẫn nhận là anh em nối khố để canh chừng thế giới: “Anh ngủ, em thức”. Chỉ có ĐGH Bênêdictô XVI mới lên ngôi được 5 năm và có lẽ đang dồn nỗ lực vào việc phục hồi các Giáo Hội tại Âu Châu và Mỹ Châu, nên đã lơ là trong việc chống lại 3 quái thai CS đang hoành hành tại Á Châu là Trung Quốc, Bắc Hàn và VN thôi.
Các văn kiện của Toà Thánh minh định rằng tất cả những tín hữu nào bảo vệ hay cổ võ học thuyết CS thì “đương nhiên” bị khai trừ khỏi Giáo Hội. (Q.4 If Christians declare openly the materialist and antichristian doctrine of the communists, and, mainly, if they defend it or promulgate it, “ipso facto”, do they incur in excommunication (“speciali modo”) reserved to the Apostolic See? R. Affirmative).
Ngoài ra, những tín hữu nào bỏ phiếu cho đảng CS hoặc gia nhập đảng này hoặc viết lách cho các báo chí CS thì cũng cùng chung số phận như vậy.
Tất cả những luật lệ trên cho tới nay vẫn còn hiệu lực, vì chưa hề có một văn thư nào của Toà Thánh hủy bỏ, tu chính hoặc sửa chữa nội dung các Sắc Luật chống Cộng kể trên. Cho nên, một tín hữu Công Giáo - bất kể thuộc thành phần nào: từ Giáo Hoàng, Hồng Y, Tổng GM, Giám Mục, Linh Mục, tu sĩ nam nữ đến giáo dân - mà hợp tác, ca ngợi, tán đồng học thuyết và chế độ CS dưới bất cứ hình thức nào, đều đương nhiên bị vạ tuyệt thông, tức không còn phải là phần tử trong Giáo Hội Công Giáo nữa.
LẬP TRƯỜNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Thái độ của Hội Đồng Giám Mục VN đối với chế độ CS kể từ khi Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đặt ách thống trị trên Quê Hương Việt Nam như thế nào? Một cách tổng quát, chúng ta có thể tóm lược lập trường chống Cộng khác nhau của HĐGM/VN như sau:
- Dưới thời Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn, Tổng GM Hà Nội, Hội Đồng GMVN không muốn có bất cứ liên hệ nào với Nhà Nước CSVN. Đó là một tinh thần chống Cộng quyết liệt.
- Đến thời Đức Cha Nguyễn Minh Nhật, Giám Mục Xuân Lộc, làm Chủ Tịch HĐGM thì các Giám Mục viết kiến nghị yêu cầu Nhà Nước thỏa mãn các yêu sách của Giáo Hội, ví dụ: xin gia tăng chiêu sinh, tự do truyền chức linh mục, trả lại tài sản cho Giáo Hội, v.v... Các bản kiến nghị đó cũng được gửi cho các cơ quan ngôn luận trong và ngoài nước để tạo sức ép trên Nhà Nước. Kết quả, Giáo Hội không được gì, vì Nhà Nước không bao giờ cứu xét các kiến nghị đó.
- Đến thời ĐC Nguyễn Văn Hòa, Giám Mục Nha Trang, làm Chủ Tịch HĐGM thì cũng có kiến nghị, nhưng không công bố mà đến gặp thẳng các viên chức Nhà Nước để đặt vấn đề. Nói cách khác, HĐGM tìm cách đối thoại thay vì đối đầu. Kết quả là Nhà Nước áp dụng chế độ “Xin-Cho”. Trên thực tế, có một vài kết quả trong chế độ “Xin – Cho” này. “Xin” có điều kiện thì “Cho” cũng có điều kiện. Hai bên đều có lợi.
- Khi ĐC Nguyễn Văn Nhơn, Giám Mục Đà Lạt, làm Chủ Tịch HĐGM thì chính sách đối thoại vẫn được duy trì và còn được thăng hoa bằng “lý thuyết thực dụng” nữa.
Kể từ khi Hoa Kỳ - Trung Cộng bắt tay nhau và thoả thuận cho Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam và đặt ách thống trị trên toàn lãnh thổ VN, Vatican vẫn thường xuyên gửi các phái đoàn đến thương thuyết với Hà Nội, mặc dù hai quốc gia Vatican và VN chưa thiết lập quan hệ ngoại giao.
Giai đoạn đầu, với Trưởng phái đoàn là Đức Ông Celli, cuộc gặp gỡ đôi lúc rất căng thẳng, đến nỗi có lần đã phải đập bàn đập ghế. Nhưng đến thời Đức Ông Migliore làm trưởng phái đoàn thì bầu không khí có vẻ dịu hơn và cho đến thời Đức Ông Parolin thì cuộc đối thoại mang nhiều nụ cười cởi mở. Mới đây nhất, khi Đức Ông Nguyễn Văn Phương - người liên tục có mặt trong phái đoàn Vatican đối thoại với Ủy Ban Tôn Giáo Nhà Nước - chuẩn bị về hưu thì xuất hiện một khuôn mặt mới, trẻ trung, hoạt bát hơn. Đó là Đức Ông Cao Minh Dung. Có người để ý theo dõi và ghi nhận rằng: Nhà Nước tiếp đãi phái đoàn cũng như cá nhân Đức Ông Dung một cách nồng hậu khác thường. Qua cách ứng xử của Đức Ông Dung với Đức Tổng Kiệt trong những ngày qua, có dư luận còn cho rằng CSVN đã “cài” được Đức Ông vào trong guồng máy của Vatican rồi. Dư luận đúng sai tới đâu thì chưa rõ, nhưng xưa nay, những trò tiểu xảo cài gián điệp của Bắc Việt vào guồng máy VNCH vẫn còn làm nhiều người khiếp sợ!
Người ta thấy rõ bầu khí “đối thoại” giữa Vatican và CSVN cùng chung một nhịp với mối quan hệ giữa HĐGMVN và guồng máy cai trị của Hà Nội.
Tưởng cần phải ghi nhận một điểm khá đặc biệt và rất nghịch thường ở đây là Giáo Hoàng vừa là Giáo Chủ Đạo Công Giáo, kế quyền Thánh Phêrô và Đại Diện Đức Kitô trên trần gian này vừa là Quốc Trưởng của quốc gia Vatican, một quốc gia mà diện tích chỉ rộng bằng khuôn viên Dinh Độc Lập của VNCH thôi. Với quyền uy Giáo Hoàng, các ngài có hàng trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới và đã ra vạ tuyệt thông cho hàng triệu tín đồ “thiên cộng”. Nhưng với tư cách Quốc Trưởng Vatican, các ngài chỉ có khoảng 800 công dân mang quốc tịch Vatican, nhưng Sứ Thần Toà Thánh hiện diện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cho nên, mặc dầu Fidel Castro đang mang án vạ tuyệt thông mà ĐGH Gioan Phaolô II vẫn đến thăm, bắt tay Fidel Castro, cử hành Thánh Lễ công khai mà không ai phân biệt được ngài đến Cuba trong tư thế Giáo Hoàng hay Quốc Trưởng Vatican. Biết được điểm nghịch thường này, người ta mới hiểu được tại sao Giáo Hoàng có lúc quyết liệt ngoảnh mặt đi, nhất định không nói chuyện với CS, nhưng có lúc lại tay trong tay, niềm nở với Cộng Sản. Hiểu được nét độc đáo này, người ta mới không thắc mắc tại sao trong khi các giáo dân VN đọc câu kinh của cha Trinh Cát: “Xin cho gia đình con thoát ách Cộng Sản vô thần” thì Chủ Tịch Nhà Nước CS và Thủ Tướng CSVN vênh váo bước vào Điện Vatican bắt tay Đức Giáo Hoàng.
VÀI TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ Ở VIỆT NAM
Lệnh của Giáo Hội cấm hợp tác và ca tụng Cộng Sản vẫn còn hiệu lực, nhưng có vài trường hợp cụ thể đã và đang xảy ra tại VN mà nhiều người vẫn đề cập đến, vẫn thắc mắc, vẫn hoang mang, nhưng rồi vấn đề đâu vẫn còn đó, suốt năm này qua năm khác.
Trường hợp thứ nhất: LM Huỳnh Công Minh là người mang thẻ Đảng CSVN và đã có thời là Dân Biểu trong Quốc Hội của Nhà Nước CS. Theo Luật hiện hành của Giáo Hội, ông Linh Mục Cộng Sản này đương nhiên đã bị dứt phép thông công. Mọi người cùng biết, cả nước đều biết, Giáo Hội La Mã cũng biết. Vậy mà ông vẫn thản nhiên cử hành các bí tích công khai như một linh mục bình thường. Điều đáng nói và quan trọng hơn nữa là ông Huỳnh Công Minh còn được ngồi trong chức vụ quan trọng số 2 của Tổng Giáo Phận Saigon, đó là chức Tổng Quản hay còn gọi là Cha Chính Địa Phận. Chức vụ này quyền uy chỉ sau chức Tổng Giám Mục Saigon thôi. Ở các địa phận khác, chức này được thay đổi thường xuyên, nhưng không hiểu sao ông Huỳnh Công Minh ngồi ở chức này từ suốt 35 năm qua. Đã có người hỏi ĐHY Phạm Minh Mẫn về việc này thì Ngài trả lời: Khi tôi về nhận chức thì đã có cha Huỳnh Công Minh rồi. Có sao tôi cứ để vậy!”. Một câu trả lời được đánh giá là rất “huề vốn”!
Trường hợp thứ nhì: LM Phan Khắc Từ. Ông linh mục này mang biệt danh “linh mục hốt rác”, vì ông đã nhân danh những công nhân hốt rác xách động biểu tình gây rối chế độ VNCH để làm lợi cho CS Bắc Việt. Chính ông này đã công khai kể công với Đảng CSVN là ông đã dùng nhà thờ để chế bom đánh Mỹ. Ông cũng có thẻ Đảng CS. Ông đã công khai phế bỏ luật Giáo Hội bắt linh mục phải sống độc thân, vì ông đã có vợ, có con. Ông còn tổ chức ăn thôi nôi con linh đình ngay tại Giáo Xứ Vườn Xoài, nơi ông được bổ nhiệm làm Linh Mục Chánh Xứ. Thời gian ông giữ chức Chánh Xứ cũng lâu như ông Huỳnh Công Minh ngồi ở ghế Tổng Quản vậy. Giáo Xứ Vườn Xoài ở ngay Trung Tâm Saigon và cũng thuộc quyền cai quản của ĐHY Phạm Minh Mẫn.
Không biết đến bao giờ những sự thực chung quanh hai ông linh mục CS bị vạ tuyệt thông mới được phanh phui. Chắc chắn sau lưng hai ông phải có cả một thế lực Búa Liềm, khiến Giáo Hội phải nể sợ. Ngoài ra, các nhà thần học của GHCG sau này phải giải thích làm sao cho những giáo dân đã nhận những phép bí tích từ nơi những ông linh mục đã bị án tuyệt thông này? Những bí tích này có thành không? Tại sao thành? Thành ở chỗ nào? Giá trị của bí tích sẽ phải cắt nghĩa thế nào khi giáo dân cứ lãnh nhận từ tay một người mà họ biết là linh mục đã bị đuổi khỏi Giáo Hội và đã có vợ con? Chính những ông linh mục này cũng biết rõ họ không còn phải là linh mục nữa. Và hơn hết, Tổng Giám Mục Saigon là người đã bổ nhiệm một-linh-mục-không-phải-linh-mục về ban bí tích cho giáo dân, có khác nào Tổng GM Saigon đã cho giáo dân ăn bánh mà biết rằng trong bánh có con bọ cạp. Tổng GM Saigon biết, HĐGMVN biết, Giáo Hội La Mã cũng biết. Nhưng tất cả đều im lặng. Thế nghĩa là sao?
CHÚA THÁNH THẦN SOI SÁNG
Có người giải thích rằng: Mọi việc của Giáo Hội đã có Chúa Thánh Thần soi đường chỉ lối. Các Đấng cầm quyền trong Giáo Hội đều nhận ơn Chúa Thánh Thần cách đặc biệt. Hãy cứ vâng lời và tuân phục, vì Chúa đã chọn các ngài thì Chúa dẫn đường cho các ngài. Đặt vấn đề này ra làm chi?
Tôi cho rằng luận cứ này là mê tín, phản đạo, xúc phạm tới Chúa Thánh Thần. Mọi tín hữu, dù ở phẩm trật nào trong Giáo Hội, kể cả giáo dân, đều lãnh nhận MỘT BÍ TÍCH THÊM SỨC, MỘT ƠN CHÚA THÁNH THẦN NHƯ NHAU. Chúa Thánh Thần soi sáng cho hết mọi thành phần dân Chúa, trong đó có cả thành phần chiếm đại đa số là giáo dân. Đừng ai tưởng nhầm là chỉ có các chức sắc Giáo Hội mới có ơn Chúa Thánh Thần. Chính nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, tăng sức mạnh, mà các nạn nhân tình dục của một số giáo sĩ mới có can đảm đứng lên tố cáo, trong lúc vẫn có những chức sắc cao cấp trong GH lại cố tình bao che. Hành động bao che tội ác này mà lại dám biện minh rằng có Chúa Thánh Thần hướng dẫn thì quả là phạm Thánh, là xúc phạm tới Chúa Thánh Thần, là gán cho Thiên Chúa đồng hành với tội ác. Chính nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động nơi các giáo dân mà những mụn ghẻ (tức những giáo sĩ dâm ô) bị trừ khử khỏi Giáo Hội và làm cho bộ mặt Giáo Hội được xinh đẹp trở lại. Chính nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động nơi các giáo dân mà hình ảnh đẹp của các tu sĩ thanh sạch được rạng ngời, chiếu sáng. Chính nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động nơi các nạn nhân của những vụ ấu dâm mà họ vẫn còn vững vàng tin yêu Giáo Hội và trung thành giữ đạo Thánh Chúa. Như vậy, Chúa Thánh Thần tác động ở khắp mọi thành phần dân Chúa, không nhất thiết phải là ở các chức sắc cao cấp trong Giáo Hội.
Đối với Đảng CSVN, Hồ Chí Minh tự xưng là một đảng viên CS. Ông đã theo chỉ thị của Cộng Sản quốc tế để thành lập Đảng CSVN, gây nên biết bao hệ lụy tang thương cho đất nước và dân tộc này. Những người cầm quyền hiện tại đều là đảng viên CS. Do đó, Giáo Hội VN không có lý do gì để bắt tay, hợp tác và duy trì chế độ này. Giáo Hội Ba Lan đã có một Tổng GM Stanislaw Wielgus, được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI tín nhiệm, bổ về cầm quyền giáo phận lớn vào bậc nhất Balan là Warsaw. Vậy mà cuối cùng Chúa Thánh Thần đã không soi sáng cho Đức Giáo Hoàng nhận ra con người thâm hiểm, lang sói này, mà lại soi sáng cho Ủy Ban Nhân Quyền Ba Lan phát giác ra một tin động trời là TGM Wielgus trước đây đã từng là gián điệp cho cơ quan tình báo CS Ba Lan. Sau đó, Chúa Thánh Thần cũng không soi sáng cho Đức Thánh Cha thu hồi lệnh bổ nhiệm tên điệp viên Cộng Sản này về giữ chức Tổng GM Warsaw, mà lại soi sáng cho chính đương sự biết nhận tội và từ nhiệm!
Hầu như chắc chắn rằng trong tương lai gần đây, khi Đảng CSVN sụp đổ, người ta sẽ khám phá ra nhiều chuyện động trời nơi Hội Đồng GMVN. Thực tế tang thương tới đâu, chưa rõ. Nhưng hiện tại, đã có rất nhiều điềm báo khác thường về những nanh vuốt Satan Cộng Sản đang hoành hành nơi các chức sắc của Giáo Hội VN. Điển hình là hai trường hợp cụ thể khó hiểu nhất vừa nói ở trên là Huỳnh Công Minh và Phan Khắc Từ, rồi đến văn thư "Cờ Đỏ, Cờ Vàng" của ĐHY Phạm Minh Mẫn; những lời tuyên bố mang tính cách lạc quan hồ hởi giữa Đạo và Đảng của ĐC Nguyễn Văn Nhơn; bài viết Sự kiện, Thông tin và những Góc nhìn” đăng trên Web chính thức của Hội Đồng GMVN. Có tin nói bài viết đó là của Giám Mục này, của GM kia. Sự thực chỉ có ĐC Nhơn và tác giả thật của nó biết, nhưng điều chắc chắn khi đọc lên thì đúng là tư tưởng, lời lẽ và mạch văn của một đảng viên Đảng Cộng Sản, chứ không phải của một giám mục chính danh. Chưa hết, một Chủ Tịch HĐGM, 73 tuổi, được bổ nhiệm về làm phó với quyền kế vị cho một Giám Mục, 58 tuổi, mà rồi lại được chính Hội Đồng GM đăng lời chúc mừng rầm rộ, y như là một “chiến thắng” lừng lẫy của một trận chiến cam go? Trong khi đó, GH không có gì để chiến thắng mà chỉ đang phải đối đầu với nhiều tang thương. Có chăng là Đảng CSVN đang reo mừng chiến thắng và chúc mừng nhau mà thôi.
Phải chờ cho đến ngày những tín hiệu bất thường này được giải mã và sự thật được phơi bày trước công luận.
Và ngày ấy chỉ đến khi Đảng CSVN và các bộ hạ của nó bị khai tử.
KẾT LUẬN
Biến cố GM Nguyễn Văn Nhơn về làm Giám Mục Phụ tá, bề ngoài tưởng rằng Đức Tổng Kiệt được tăng quyền, nhưng bên trong, đó là một sự tước quyền. Trong lúc tôi ngồi viết những dòng này thì tại nhà thờ Chánh Toà Hà Nội đang diễn ra một cuộc chuyển quyền mặt ngoài tưởng như êm ái, nhưng mặt trong rất ngột ngạt. Sở dĩ tôi mường tượng nó ngột ngạt, căng thẳng vì chưa bao giờ Ban Tổ Chức một Thánh Lễ tôn giáo lại “yêu cầu giáo dân khi đến dự lễ không nên mang theo bất cứ một thứ gì không phù hợp với thánh lễ mừng Đức Tổng Phó Nguyễn Văn Nhơn”. Có phải Ban Tổ Chức sợ giáo dân mang cà chua, trứng thối đến hay sao? Thì ra, các giáo dân hôm nay chỉ được quyền "mừng" mà không có quyền “buồn” hay “phẫn nộ”.
Là một tín hữu tin Chúa, tôi phải tâm niệm rằng Giáo Hội không phải là Đức TGM Ngô Quang Kiệt này hay Đức GM Nguyễn Văn Nhơn nọ. Giáo Hội chính là Bàn Thánh mà TGM Ngô Quang Kiệt và GM Nguyễn Văn Nhơn đang đứng bên nhau, cùng dự một Bàn Tiệc, cùng ăn một Bánh Thánh, cùng uống một Chén Thánh, cùng tôn thờ một Thiên Chúa và phục vụ một Giáo Hội.
Thế nhưng, chiếc Bàn Thánh hôm nay hình như có những đệ tử của Karl Marx và Lénin đang thập thò đâu đó, khiến cho chiếc bàn có vết nứt ra làm đôi: Một bên cười rạng rỡ, có pha lời chúc mừng. Một bên buồn ray rứt, có dòng lệ hoen mi.
Những Sắc Luật ra vạ tuyệt thông cho tín hữu thiên Cộng nằm ngổn ngang trước mặt đã làm tôi thực sự hoang mang khi nghĩ về Tổng Giáo Phận Hà Nội giờ này. Đức TGM Ngô Quang Kiệt phải “chống Cộng” tới mức nào để Toà Thánh cho là không đi quá đà và khỏi bị thay thế theo yêu sách của Nhà Nước VN? Còn Đức GM Nguyễn Văn Nhơn phải “giao hảo” với CS tới mức nào mới không bị “đương nhiên” mắc vạ tuyệt thông để có đủ tư cách kế vị Đức TGM Kiệt?
Tôi chỉ còn biết ngửa mặt lên Trời cầu xin Thánh Thần Chúa ngự đến, ban cho tôi một Đức Tin bằng nửa hạt cải thôi, để tôi có được một giấc ngủ yên hàn đêm nay.
San Jose, ngày 6 tháng 5 năm 2010 (8 giờ tối)
Tiến Sĩ TRẦN AN BÀI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Comment