[Đăng báo ĐMHCG,
số tháng 10-2014, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì
sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha
với chồng là Felix, một người được kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ
nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ
vật chất cho người nghèo.
Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn
có thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con
trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và
Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại
của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.
Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa
Minh).
Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh
cảm việc giảng thuyết mà Thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi
với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé
trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa
tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như
ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một
luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.
Thánh Đa Minh được
trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông
minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có
tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng sùng kính Đức Mẹ, biết
giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết
những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và
ngài sẽ rao giảng.
Thánh Đa Minh tận
hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu
luật Thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài
cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được
nhiều người yêu mến và kính trọng.
Năm 1203, lúc 33
tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp
quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài
thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm
giữa Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.
Công việc của ngài
không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen (*) đe dọa. Những
người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ.
Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà
thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự
tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết
này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.
Mọi thứ có vẻ
không suôn sẻ, khi Thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm
1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho
những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.
Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết
quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất
khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt
trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain
of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mai Côi gồm 150 câu chào của sứ
thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”.
Thánh Đa Minh
không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mai
Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của
thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, Thánh Đa
Minh đã tới nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi Thánh
Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm,
sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt
đầu sống đời Kitô hữu.
Sau thành công
tại Toulouse, Thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc,
Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mai Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất
chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh
mẽ”. Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng
chân lý Phúc Âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của
Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài
mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời
cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn
nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen.
Chú ý những lời
đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi
lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, Thánh
Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước
khi giảng thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các
ví dụ về cuộc sống hàng ngày.
Phương pháp đó
tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu
Mai Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn
của Thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi
chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã
kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của Thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục.
Chuỗi Mai Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count
Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp
quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.
Năm 1215, Thánh
Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như
ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống chung,
và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao
giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của Thánh Đa Minh. Một
người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo Thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà
cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, Thánh Đa
Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em
Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có
để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô.
Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và
tuyên bố Thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.
Khi sinh thời, Thánh
Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra
nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài
khuyến khích người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già
theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được
phê chuẩn 5 năm, Thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi
hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi
đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.
Ước mơ từ lâu của
chân phước Jane, mẹ của Thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp
lửa sáng khắp thế giới.
THÁNH THI HAY CHUỖI MAI CÔI?
Trong thời Thánh
Đa Minh, Chuỗi Mai Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới
thế kỷ 15 Chuỗi Mai Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi Thánh Đa Minh giới
thiệu Chuỗi Mai Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.
Chữ ros có thể
lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với Thánh Đa Minh về
“sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng”
– từ ngữ “Chuỗi Mai Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh,
người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và Thánh Đa Minh khuyến khích
ngài khôi phục Chuỗi Mai Côi.
Dạng Chuỗi Mai
Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời Thánh Đa Minh. Việc
thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô
V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân
phước GH Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mai Côi truyền
thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai
của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.
TẶNG PHẨM CỦA ÁO ĐỨC BÀ
Năm 1218, tại
Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là
giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp Thánh Đa Minh và gia
nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc
Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu cho ngài, chữa
bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular, Áo Đức Bà). Đức
Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.
TẠI SAO LẦN CHUỖI MAI CÔI?
Thế kỷ XV, Lm
Alan de la Roche, Dòng Đa-minh, bảo đảm Chuỗi Mai Côi là nguồn vô biên của các
phúc lành:
1. Tội nhân
được tha thứ.
2. Linh hồn nào
khao khát sẽ được thỏa khát.
3. Ai khổ sầu sẽ tìm
thấy hạnh phúc.
4. Ai bị cám dỗ sẽ
được bình an.
5. Người nghèo
được giúp đỡ.
6. Tu sĩ được canh tân.
7. Ai không hiểu
biết sẽ được hướng dẫn.
Về Chuỗi Mai Côi, Thánh GH Gioan Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mai Côi là giao phó những gánh
nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.
ROBERT FEENEY
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicDigest.com)
(*) Albigensianism: Phong trào
Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền
Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng
hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là
lạc giáo thời Tòa án Dị giáo (Inquisition hoặc Catharism).
ĐỨC MẸ GUALALUPE – MEXICO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment