Ở đời có nhiều thứ trái ngược – cả cụ thể và trừu tượng, một trong các tình trạng đối lập đó là Khôn và Khờ. Hai chữ bắt đầu bằng mẫu tự K, hai mẫu tự giống nhau về cách viết và cách phát âm, nhưng lại hoàn toàn trái ngược về ý nghĩa.
Thế nào là khôn ngoan? Ai là người khôn
ngoan? Triết gia Albert Schweitzer (1875–1965, Đức quốc) nhận định: “Người lạc quan nhìn đâu cũng thấy màu xanh, người bi quan thấy khắp nơi
chỉ toàn màu đỏ, còn người thực sự
khôn ngoan thì mù màu.” Một cách
nói thật thú vị. Khôn ngoan là điều rất quý giá.
Khôn ngoan là đức tính, là điều vĩnh tồn, bởi
vì Kinh Thánh cho biết: “Khôn ngoan là
cội rễ không thể nào hư hoại.” (Kn 3:15) Kinh Thánh cũng nói khôn ngoan là
báu vật: “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô
tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên
Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban.” (Kn
7:14)
Quả thật, sự khôn ngoan không chỉ là điều rất
cần thiết trong cuộc sống mà còn là một nhân đức. Sách Châm Ngôn xác định: “Khôn ngoan chính là cây sự sống đối với
người nào nắm được khôn ngoan. Giữ được khôn ngoan quả là hạnh phúc.” (Cn
3:18) Còn sách Giảng Viên cho biết: “Sự
khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng.”
(Gv 8:1) Và sách Huấn ca nói: “Bước đầu
của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của
khôn ngoan, mang lại bình an và sức khỏe dồi dào.” (Hc 1:14:18) Khôn ngoan thật
là đa lợi ích!
Tuy nhiên, khôn ngoan không liên quan tình
trạng giỏi giang, bộ óc thông minh hoặc ngu dốt. Người giỏi và thông minh chưa
chắc khôn ngoan, và người ngu dốt không hẳn là thiếu khôn ngoan. Thánh Teresa
Lisieux (Teresa Hài Đồng Giêsu, 1873-1897) học hành chẳng bao nhiêu nhưng được
Giáo hội tôn phong là Tiến sĩ Giáo hội vì thánh nữ có bí quyết nên thánh đơn
giản là “con đường thơ ấu” – tức là sống đơn sơ như trẻ thơ. Chị thánh được Giáo
Hội tôn phong là thánh bổn mạng của các xứ truyền giáo, các phi công, những người
bán hoa, và các bệnh nhân – đặc biệt là các bệnh nhân AIDS (SIDA). Thánh nữ Faustina
(1905-1938) cũng chỉ là người kém cỏi về chữ nghĩa nhưng lại được Chúa Giêsu
mặc khải bí quyết nên thánh là “tín thác vào Đức Kitô.” Thật là mầu nhiệm, đúng
như Chúa Giêsu đã vui mừng tạ ơn Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn.” (Mt 11:25; Lc 10:21)
Có sự trùng hợp thú vị: Khôn ngoan, Khiêm nhường
và Kiêu ngạo đều bắt đầu bằng mẫu tự K. Ai khiêm nhường sẽ có khôn ngoan thật,
ai kiêu ngạo sẽ có khôn ngoan ảo – tức là “khờ khạo” (cũng mẫu tự K). Thật lạ
lùng! Ba mẫu tự K nhưng với hai hướng trái ngược nhau. Ước gì mỗi chúng ta luôn
biết tự nhủ và hứa với Chúa: “Dầu hèn mọn
và bị người khinh dể, huấn lệnh Ngài, con cũng chẳng quên.” (Tv 119:141)
Ai cũng khả dĩ biết rằng có nhiều loại kho
tàng, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng chắc hẳn “kho tàng khôn ngoan” là kho
tàng quý giá nhất. Quả thật, sự khôn ngoan rất cần thiết, nhất là đối với những
người đang lữ hành giữa trần gian đầy mưu ma chước quỷ này. Vì thế, Chúa Giêsu
đã căn dặn: “Anh em phải khôn như rắn và
đơn sơ như bồ câu.” (Mt 10:16) Chuyện Khôn – Dại cũng còn tùy quan niệm,
cái khôn của người này có thể là cái dại của người khác, và ngược lại. Người
Công giáo có câu vè thế này: “Khôn thế
gian làm quan Địa Ngục, dại thế gian làm quan Thiên Đàng.”
Mặc dù không có niềm tin vào Đức Kitô, người
đời cũng vẫn đề cao sự khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan cũng có năm nẻo, bảy đường.
Văn hào Victor Hugo (Pháp) nói: “Sự thận
trọng là con trưởng của sự khôn ngoan.” Còn Văn sĩ Robert A. Heinlein (Hoa
Kỳ) so sánh: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn
khéo thì chẳng khác gì cái ác.” Kịch tác gia Menander (Hy Lạp) nhận định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.”
Đó là dạng triết-lý-sống ở đời, đôi khi phải biết “sống ngược đời,” như cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm tự trào: “Ta dại ta tìm
nơi vắng vẻ, Người khôn người tìm chốn lao xao.” Thế đấy, mấy ai được “cái
dại” như cụ Trạng Trình!
Kinh Thánh cho biết rằng, vào một đêm xa xưa
tại Ghípôn, Đức Chúa đã hiện ra báo mộng cho vua Salômôn: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” (1 V 3:5) Giấc mộng kỳ lạ quá
chừng, đúng là hơn cả tuyệt vời, vì được Chúa “bật đèn xanh” như vậy thì còn gì
bằng!
Tuy nhiên, trái với ý tưởng thông thường, vua
Salômôn lại khiêm nhường thưa: “Chính
Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đavít thân phụ con,
như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn
ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho
người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa
là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đavít,
thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền
trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể
xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng
nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức
cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” (1 V 3:6-9) Vua Salômôn vô
cùng khôn ngoan khi xin ơn khôn ngoan mà không nói rõ là sự khôn ngoan, mà chỉ
xin “biết lắng nghe” và “biết phân biệt phải trái.” Biết hai điều đó thì khôn
ngoan quá rồi! Quả thật, Kinh Thánh cho biết: “Chúa hài lòng vì vua Salômôn đã xin điều đó.” (1 V 3:10)
Rất hài lòng về sự khéo léo của Vua Salômôn nên
Thiên Chúa phán với ông: “Bởi vì ngươi ĐÃ
XIN điều đó, ngươi đã KHÔNG XIN cho được sống lâu hay được của cải, cũng không
xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được TÀI PHÂN BIỆT ĐỂ XÉT XỬ,
thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan
minh mẫn, đến nỗi trước ngươi chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi cũng chẳng
có ai bì kịp.” (1 V 3:11-12) Vua Salômôn không chỉ là người khôn ngoan nhất
thế gian, mà có thể nói rằng ông cũng là người hạnh phúc nhất thế gian này, bởi
vì ông đã chiếm hữu được “kho báu” của Thiên Chúa. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết
cầu xin những điều có lợi cho người khác để làm hài lòng Thiên Chúa, và như
vậy, chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ được một phần khôn ngoan của Vua Salômôn.
Thánh Vịnh gia cũng đã thực sự khôn ngoan khi
thân thưa: “Lạy Chúa, con đã nói: phần
của con là tuân giữ lời Ngài.” (Tv 119:57) Chúng ta phải noi gương này. Nếu
vậy, chúng ta phải “coi trọng luật Chúa truyền ban hơn vàng muôn bạc triệu.”
(Tv 119:72) Đó là một dạng “từ bỏ mình” để theo Chúa, và như vậy là khôn ngoan.
Nhưng điều đó không dễ thực hiện nếu chúng ta không “tự khó với chính mình.”
Đồng thời, hãy tự cố gắng để có thể quyết tâm như “ông bụi đời” Gioan Tẩy Giả: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải
lu mờ đi – He must become greater, I must become less.” (Ga 3:30)
Một quyết tâm rất khó: Hãy tự khó với chính
mình (nhưng không khó với người khác) và khiêm nhường nài xin Thiên Chúa xót
thương: “Xin Chúa lấy tình thương mà an
ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được
sống, vì luật Ngài làm con vui sướng thỏa thuê.” (Tv 119:76-77) Có thể quyết
tâm như vậy rồi chúng ta mới dám thân thưa: “Vì
thế, mệnh lệnh Ngài, con yêu quý, quý hơn vàng, hơn cả vàng y. Vì thế, theo mọi
huấn lệnh Ngài, con thẳng bước, lòng ghét mọi đường nẻo gian tà. Thánh ý Chúa
kỳ diệu lắm thay, nên hồn con tuân giữ. Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng
cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường.” (Tv 119:127-130) Tuyệt vời quá, lô-gích
quá!
Khiêm nhường là điều Thiên Chúa muốn, chính Chúa
Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, tất nhiên Ngài không chỉ
mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải sống khiêm nhường. Trong bài ca Ngợi
Khen (Magnificat) Đức Maria đã xác định điều đó: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
(Lc 1:52)
Khiêm nhường là nhân đức nền tảng của
tòa-nhà-nhân-đức, Cựu Ước cũng đề cao “viên đá góc tường” khiêm nhường và xác
định: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay.” (Hc 10:14) Ngôn sứ Isaia cũng nói rõ: “Đức Chúa làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn,
và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất.”
(Is 23:9) Và thật lạ thay, chính vua Nabucôđônôxo đã phải lên tiếng ca ngợi,
tán dương và tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời công nhận mọi việc của Ngài là chân
thật và đường lối của Ngài là công minh. Ông xác định: “Ngài có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.” (Đn 4:34)
Thánh Ý Thiên Chúa cao sâu và huyền nhiệm,
quan phòng kỳ diệu, tiền định lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Nhưng
về ý định cứu độ của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người,
tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người
đã biết từ trước thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con
của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm
8:28-29) Ôi, thật là tuyệt vời! Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và thương
xót, được giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô, được phục hồi cương vị
làm con cái, lại còn được làm em của Chúa Giêsu nữa. Phàm ngôn không thể nào
diễn tả đủ mức niềm hạnh phúc mà chúng ta đã và đang được tận hưởng!
Đưa ra một chuỗi hệ lụy liên kết với nhau
theo tính lô-gích, Thánh Phaolô xác định: “Những
ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi
thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính
thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:30) Được “hưởng phúc vinh
quang” tức là được vào Nước Trời, được vào Thiên Đàng, được hưởng phúc trường
sinh. Mục đích của tín nhân là thế mà thôi!
Tuy nhiên, muốn vào Thiên Quốc hay không là
quyền tự do riêng của mỗi người, Thiên Chúa không hề ép buộc bất kỳ ai, vì Ngài
đã ban cho chúng ta quyền tự do trọn vẹn, và Ngài luôn tôn trọng quyền đó nơi mỗi
chúng ta. Nhưng vì thương xót chúng ta, Ngài không thể bỏ mặc chúng ta, nên
Ngài vẫn cảnh báo hoặc động viên chúng ta, vì Ngài muốn tất cả chúng ta được
vào Nước Trời, chứ không muốn ai phải hư mất. Có lẽ vì tôn trọng tự do của
chúng ta mà Chúa Giêsu thường sử dụng dụ ngôn và với cách nói: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt
13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35) Như vậy, chúng ta
cần phải thực sự tỉnh thức, tức là phải sống khôn ngoan, biết chọn lựa để có
thể trở nên công dân vĩnh viễn của Thiên Quốc.
Khi đề cập Nước Trời, Chúa Giêsu đã đưa ra
nhiều dụ ngôn để mô tả. Tin Mừng hôm nay gồm ba trong số các dụ ngôn đó: Kho
Báu, Ngọc Quý, và Chiếc Lưới.
1. KHO BÁU (Mt 13:44) – dụ ngôn rất ngắn gọn:
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn
giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi
bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.” Chắc chắn dụ ngôn này không
có gì khó hiểu. Tuy nhiên, “bán tất cả những gì mình có” hay không, đó là quyền
chọn lựa riêng của mỗi người. Cái “khó” là can đảm và dứt khoát có “bán” hay
không.
2. NGỌC QUÝ (Mt 13:45-46) – dụ ngôn cũng ngắn
gọn: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện
một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán
tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” Dụ ngôn này cũng không hề khó
hiểu, tương tự dụ ngôn “kho báu,” nhưng lại cũng có cái khó, vì chúng ta có
quyền tự do “bán tất cả những gì mình có” hay không, không ai có thể bắt buộc.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ đa số chúng
ta không là triệu phú hoặc tỷ phú (tính theo ngoại tệ, cụ thể là Mỹ kim, chứ
nội tệ thì “tệ” lắm, ngày nay người Việt nào cũng chí ít là triệu phú, bởi vì
tiền Việt là… “vô giá,” có lẽ phải gọi là Việt tệ) nhưng dù nhiều hay ít thì tài
sản riêng của ai cũng “lớn” lắm, không dễ gì dứt khoát từ bỏ. Tài sản đó không
phải là vật chất, mà là cái Tôi, tính tự ái, lòng kiêu ngạo, thói sĩ diện,... đặc
biệt là “kho tàng” tội lỗi, bởi vì phạm tội cũng có cái “thú riêng.” Trái cấm bao
giờ cũng hấp dẫn, ngọt ngào, mà “ăn vụng” mới ngon làm sao! Bởi vậy, Chúa Giêsu
đã nói chắc nịch: “Kho tàng của bạn ở đâu
thì lòng bạn ở đó.” (Mt 6:21; Lc 12:34)
3. CHIẾC LƯỚI (Mt 13:47-50) – dụ ngôn dài hơn
một chút: “Nước Trời lại còn giống như
chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta
kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến
ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt
kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó,
chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Riêng dụ ngôn thứ ba này có vẻ “nặng đô” hơn
hai dụ ngôn kia, cũng rõ hơn và “mạnh” hơn. Dụ ngôn này tương tự dụ ngôn “Cỏ
Lùng.” (Mt 13:24-30) Tất nhiên không ngư dân nào lại để chung cá xấu với cá
tốt, chắc chắn họ sẽ loại cá xấu ra. Cá xấu “bị vứt ra ngoài” thì thôi rồi,
“amen tùm.” Bị vào nơi chỉ có lửa thì tha hồ mà “sưởi,” rồi tha hồ khóc lóc và nghiến
răng cho… “đã,” giống như kiểu người ta nói đùa là “…và làm việc đền tội cho
SƯỚNG. Amen.” Ở Hỏa ngục thì “sướng” thật đấy! Cứ tha hồ than thở suốt đời mà
chẳng ai dỗ dành, an ủi, chẳng ai thương xót, hết đường thoát thân, Chúa cũng
không cứu nổi, bởi vì đó là cách chọn lựa theo ý muốn tự do của chúng ta. Ôi, khủng
khiếp quá chừng luôn!
Đây là điều chắc chắn: Hỏa Ngục là nơi có thật, thật hơn cả sự thật. Nhiều người phải sa
Hỏa Ngục bởi vì họ chưa bao giờ tin Hỏa Ngục có thật, mặc dù đã nghe nói tới
nhiều rồi (x. Nhật Ký Thánh Faustina, số 741) Chúa Giêsu cũng đã mặc khải Hỏa Ngục
cho vài vị thánh được thị kiến. Chuyện thật chứ không đùa. Chưa đủ lòng mến để
có thể ăn năn tội cách trọn thì chí ít cũng vì sợ mà ăn năn tội cách chẳng
trọn. Chúa vẫn chấp nhận vì Ngài là Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu
mến chúng ta.” (Ep 2:4)
Sau khi nói xong ba dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các
đệ tử: “Anh em có hiểu tất cả những điều
ấy không?” Họ cùng đáp: “Thưa hiểu.”
Ngài kết luận: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư
nào đã được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong
kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13:52) Chúng ta đã nghe nói
và biết nhiều về Nước Trời, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều, phần quyết định
thuộc về mỗi người. Ước gì chúng ta đủ can đảm để “bán những gì mình có” để có
được tấm “Visa Nước Trời” trong tay, như vậy thì an tâm, chỉ còn chờ “chuyến
bay” mà thôi!
Nói về tình-trạng-được-cứu-độ, tức là điều
kiện để “được vào Nước Trời,” Thánh Tiến sĩ Lm Thomas Aquino (Tomás de Aquino,
Tommaso d’Aquino, Thomas d’Aquin, 1225-1274) cho biết bí-quyết-sống: “Có ba điều cần để con người được cứu độ:
biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì.” Tin, Muốn và Làm
là ba động từ quan trọng, giống như một tam-giác-sống đối với đời sống tâm linh
của mỗi Kitô hữu, đó cũng là điều kiện “ắt có và đủ” để khả dĩ trở nên “công
dân Nước Trời” vậy.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin dạy con biết đường lối và thánh chỉ của Ngài,
và xin giúp con can đảm tuân theo đến cùng; xin ban cho con ơn thông minh và
khôn ngoan để sáng suốt chọn lựa những gì đúng ý Ngài; xin dẫn con đi trên
đường ngay nẻo chính của Ngài, nếu không có Ngài thì con chẳng làm được gì; (Ga
15:5) xin hướng lòng con nghiêng về Thánh Ý, không ngả theo danh lợi phù vân; xin
giúp con biết “khao khát huấn lệnh Ngài” để con “được hưởng tình thương và ơn
cứu độ theo lời hứa của Ngài.” (Tv 119:41) Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment