Có những cái
Chảnh-Thời-Đại rất quái đản! Đúng như tiền nhân nói: “Dốt mà hay chữ”.
Ngày nay,
nhiều người trong chúng ta cũng ảnh hưởng thời đại nên cũng SAI về từ ngữ khá
nhiều. Ví dụ: “Liên quan” hoặc “đề cập”là “nói tới” hoặc “nói đến”, nói “liên quan tới”, “liên quan đến”, “đề cập tới”, “đề cập đến” là thừa thãi, lố bịch. Tương tự, “sử dụng” mà người ta thường
biến thành “xử dụng”.
Có người ở
Pháp gởi cho “một phần” này, đọc để biết chúng ta cũng đang “dốt chảnh”. Biết để
chấn chỉnh mới là điều cần thiết, chứ đừng “cố chấp” – nghĩa là lại tiếp tục…
“dốt chảnh”. “Không biết mình sai lầm mới là thực sự sai lầm” (Khổng Tử), “Biết đúng mà không theo là dở, biết sai mà không sửa là mê” (Dục Tử). Tình trạng “mê” còn nguy hại hơn “sai”. Xin mời tham khảo để học hỏi!
TỰ ĐIỂN TIẾNG VIỆT ĐỔI ĐỜI
Tác giả ĐÀO VĂN BÌNH (*)
Đôi Lời Phi Lộ
Bất cứ một
dân tộc nào nếu đã hình thành một nền văn học, đều có hai loại văn chương bác học
và văn chương bình dân. Ngôn ngữ cũng có ngôn ngữ trí thức và ngôn ngữ đường phố.
Phê bình văn học, phê bình cách sử dụng ngôn ngữ là điều phải có để đất
nước tiến lên. Trước đây ở Miền Nam, một số nhà văn, nhà báo dùng chữ hay viết
văn không đúng cũng đã bị phê phán chứ không phải muốn viết gì thì viết.Ngày
nay, ngôn ngữ ít học, đứng bến, mánh mung, đường phố giống như cỏ dại lan tràn
rất nhanh vì nó được phổ biến qua các bản tin, báo chí, các trang điện tử, truyền
hình, đài phát thanh, các diễn đàn… cho nên nó dễ dàng giết chết ngôn ngữ “văn
học” thường phải xuất hiện qua sách vở. không ngăn chặn kịp thời, loại ngôn ngữ lai
căng, bát nháo, quái đản sẽ trở thành dòng chính của văn học…và khi đó thì hết
thuốc chữa. Việt Nam ngày nay đang đứng trước thảm họa đó! Ngoài ra, “văn dịch”
phần lớn từ các bản tin tiếng Anh của những người không rành tiếng Anh lại kém
tiếng Việt đã phá nát cú pháp (văn phạm) Việt Nam. Hiện nay radio Việt Ngữ
đã góp phần rất lớn vào việc tàn phá tiếng Việt truyền thống.
Xin nhớ cho,
thay đổi mà tốt hơn, hay hơn thì người ta hoan nghênh. Thay đổi mà xấu, tệ hơn
là phá hoại. Ngoài ra, không có gì “lớn” cho bằng “cầm bút” nhưng cũng
không có gì “xấu xa” cho bằng viết bậy, viết nhảm, viết sai sự thật và nhất là
phá hoại ngôn ngữ truyền thống của dân tộc. Sau hết, tôi xin nhắc những người
làm báo trong nước và cả radio tiếng Việt: Dân đường phố, mánh mung, đứng
bến vì ít học cho nên ăn nói bậy bạ. Nhà báo là người có học phải hướng dẫn “đường
phố” để họ từ từ tiến lên, ăn nói mẫu mực, viết cho đàng hoàng, thế nhưng lại
chạy theo “đường phố” để phá nát tiếng Việt. Thật đáng buồn!
Dưới đây là
bảng so sánh tiếng Việt truyền thống và tiếng Việt đổi đời xếp theo thứ tự
A,B,C…
A.
- Ăn uống trở
thành ẩm thực. Thói quen/cách ăn uốngtrở thành văn hóa ẩm thực, giống như
mấy ông Ba Tàu ở Chợ Lớn nói chuyện với nhau năm xưa. Các “món ăn miền Bắc” trở
thành “Ẩm thực miền Bắc”. Người ta thích là thích các “món ăn” miền Bắc chứ miền
Bắc có đồ uống (ẩm) gì ra hồn đâu mà thích? Rồi nào là, “Du khách nước ngoài
tham gia tour trải nghiệm ẩm thựctại Hội An” (Báo Sài Gòn Giải Phóng). Thực
ra câu chuyện chỉ là, “Du khách ngoại quốc vừa du lịch vừa thưởng thức các
món ăn ở Hội An” nhưng lại viết dưới dạng cầu kỳ vì ít học. Xin nhớ cho ăn
uống không phải là văn hóavì loài thú cũng ăn uống. Con hổ sau
khiăn thịt con nai xong bèn ra bờ suối uống nước. Nhưng nếu biết nấu
nướng cho đàng hoàng, lịch sự, biết mời chào nhau thì nó là một nét của
văn hóa.
- Ăn mặc dâm
ô, ăn mặc hở hang, ăn mặc bẩn mắt trở thành ăn mặc phản cảm. Một
hình ảnh gây bất binh, xúc phạm, khó chịu cho người ta cũng gọi là phản cảm. Chỗ
nào cũng thấy phản cảm và không còn một tính từ nào khác. Ăn mặc phản cảm
là ăn mặc thế nào? Chẳng hạn một cô gái đến chùa “ăn mặc phản cảm” thì cô gái
đó ăn mặc ra sao? Hoặc váy ngắn quá, hoặc áo hở vú, hở lưng, hoặc mặc quần đùi
(shorts) hoặc mặc đồ mỏng dính (bây giờ gọi là xuyên thấu) thì phải nói ra cho
người ta biết chứ. Tiếng Việt trong nước càng ngày càng trở nên nghèo nàn và
kho tàng ngôn ngữ truyền thống sẽ chỉ còn một nửa hay bị hủy diệt bởi
những chữ như: hoành tráng, phản cảm, giải mã, kinh điển, ấn tượng, sốc, kịch
tính, kịch bản, cơ bản, thi công, xử lý, nóng (hot), khắc phục, tiếp cận … Những
danh từ đơn giản, thuần Việt do tổ tiên sáng tạo cả ngàn năm nay từ từ biến mất
để thay thế bằng tiếng Tàu nhức đầu, lạ hoắc… và quá nhiều tiếng lóng, tiếng
Tây, tiếng Anh “ba rọi” chen vào.
B.
- Bạch phiến trở
thành ma túy đá.
-Bài giải,
đáp số trở thành đáp án. Thật điên khùng quá mức! Thí dụ: “Đáp
án bài toán lớp 7 thử tài tư duy” (VnExpress). Làm toán mà “tư
duy” cái gì? Chì cần nói “giỏi toán”. Câu văn gọn gàng, sáng sủa
mà không bắt độc giả phải “tư duy” sẽ là: “Thử tài các bạn.
Hãy giải một bài toán Lớp 7.” Nghe nói VnExpress là tờ báo điện tử được nhà nước/chính
phủ cấp bằng khen.
- Bài giảng trở
thành giáo án. Soạn bài giảng trở thành “soạn giáo án”. Nghe thấy mà
ghê!
- Ban nghi lễ trở
thành ban lễ tân (ông nào chế ra chữ này chắc trước đó có học ở bên Tàu thời
Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu Bình). Xin nhớ rằn “lễ tân” chỉ là tiếp khách. Còn
“nghi lễ” là cả một thể thức có khi vô cùng phức tạp để hoàn tất một buổi lễ lớn
hoặc tiếp đón các vị nguyên thủ quốc gia.
- Bản tiếng
Việt, bản tiếng Anh, bản tiếng Hoa (cùa một tờ báo) trở
thành phiên bản tiếng Việt, phiên bản tiếng Anh, phiên bản tiếng
Hoa. Mở các Từ Điển English-Chinese Dictionary ra sẽ thấy người Tàu định
nghĩa “copy” làphiên bản. Thậm chí “version” là bản mô phỏng, phỏng theo cũng
trở thành phiên bản. Đúng là “điếc không sợ súng”. Không được đi học, không hỏi
người lớn, không tra từ điển, không nghiên cứu mà cứ viết, cứ nói. Một đất
nước, một cộng đồng như vậy thật đáng sợ! Dân tộc Nhật tiến lên là họ biết
xấu hổ(Khổng Tử gọi là tu ố). Khi biết mình sai, họ rất xấu hổ và có khi phải tự
sát. Một dân tộc mà không biết xấu hổ thì hết thuốc chữa.
- Bàng
hoàng, choáng váng, hết sức ngỡ ngàng trở thành sốc (shock).
- Bánh xe/vỏ
xe trở thành lốp.
- Bao gồm,
bao hàm, hàm chứa (một số vấn đề) trở thànhnội hàm. Ông nào dùng hai
chữ này chắc là viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa Học,Văn Chương và Ngôn Ngữ Việt Nam.
- Bảo đảm trở
thành đảm bảo, bảo hành. Xe cộ, món đồ, máy móc được bảo đảm (warranty) trong
bao lâu trở thành bảo hành. Hành nghĩa là làm, làm gì ở đây mới được
chứ?
- Bảo trì,
giữ gìn trở thành bảo quản
- Bắp thịt trở
thànhcơ bắp. Biểu diễn/khoe bắp thịt trở thành biểu diễn cơ bắp. Phô
diễn sức mạnh quân sự cũng gọi là biểu diễn cơ bắp. Đúng là loại
ngôn ngữ đường phố, bát nháo, đứng bến, mánh mung.
- Bắt
ngay trở thành bắt khẩn cấp, bắt nóng. Trong nước cái gì
cũng nóng hay lạnh. Ngôn ngữ truyền thống sẽ lần hồi diệt chủng. Thưởng
ngay trở thành thưởng nóng! Thế mới hay ngu dốt mà làm văn hóa thì
nguy hại ngàn đời!
- Bên
trong (của chiếc xe hơi) biến thành nội thất! Đúng là tiếng Việt kiểu
cung vua phủ chúa.
- Bệnh viện
nhi đồng cắt cụt chi còn bệnh viện nhi trong khi từ điển trong nước
nói rằng chữ “nhi” không bao giờ đứng một mình. Nó phải đi kèm với một chữ
khác. Như vậy Tết Nhi Đồng giờ đây chỉ còn Tết Nhi! Đúng là chữ nghĩa
quái đản, muốn viết gì, nói gì thì nói.
- Bích
chương (dán lên tường) trở thành Áp-phích
- Biến cải,
thay đổi trở thành cải tạo. Thí dụ: Trung Quốc cải tạo bãi
đá ngầm thành đảo. Trong nước nên bỏ hai chữ “cải tạo” vì nó gợi lại hình ảnh cả
triệu quân-cán-chính VNCH bị “tù cải tạo”.
- Biển, tấm
bảng trở thành Pa-nô (Panneau).
- Biểu ngữ trở
thành Băng-rôn (Bande de role).
- Bình điện trở
thành bình ắc-quy, nạp điện trở thành sạc (charge).
- Bổ túc,
trau dồi(kiến thức) trở thànhbồi dưỡng (giống như ăn uống để lấy lại sức
sau cơn bệnh).
- Bộ đôi, một
đôi, một cặp (hai người) trở thành cặp đôi (bốn người).
- Bộ mặt,
dáng vẻbiến thành ngoại hình. “Cô ta có dáng vẻ đẹp” nay biến thành “Cô ta
có ngoại hình đẹp”. Ai dùng hai chữ “ngoại hình” chắc chắn không được cắp sách
đến trường hoặc du học Trung Quốc cho nên tiêm nhiễm tiếng Tàu.
- Buổi trình
diễn văn nghệ trở thành show. Ca sĩ hát một lúc hai, ba phòng trà gọi
là “chạy show”. Ngày xưa các chiêu đãi viên ở các phòng trà đang tiếp
khách này, xin lỗi chạy qua tiếp khách kia gọi là “chạy bàn”.
- Buồn nản,
chán đời (depressed) trở thành trầm cảm .Sao dùng chữ khó khăn quá vậy? Nếu
tôi là một tâm lý gia, một bệnh nhân tới nói, “Thưa bác sĩ, tôi cảm thấy
buồn nản, chán đời” thì tôi hiểu ngay. Nhưng nếu bệnh nhân nói, “Tôi bị trầm cảm”
thì tôi sẽ phải hỏi lại, “Ông/bà nói thêm về tình trạng tâm lý của ông/bà
thế nào.” Ngoài ra, từ điển Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ “trầm
cảm”.
- Buồng lái
/ phòng lái trở thành cabin. Thậm chí khoang hành khách trên máy bay
cũng gọi là cabin (BBC tiếng Việt).
C.
- Cà-phê cứt
chồn trở thành cà-phê chồn. Những người đang chế “cà-phê cứt chồn” có
lẽ trước 1975 họ chưa hề biết gì về loại cà-phê này cho nên bây giờ mới gọi đó
là “cà-phê chồn”.
- Cách chức,
bãi chức, cất chức biến thành miễn nhiệm. Trong nước không phân
biệt được thế nào lànhiệm vụ thế nào là chức vụ. Nhiệm vụ là các
việc hay bổn phận phải làm. Còn chức vụ là quyền hạn, địa vị để làm những việc
đó. Thí dụ: Tổng thống là chức vụ. Còn nhiệm vụ của tổng thống là thi hành luật
pháp, đối nội đối ngoại để bảo vệ quyền lợi của đất nước trên khắp thế giới… có
cả ngàn việc. Ngoài ra, người ta chỉ nói mãn nhiệm kỳ (hết nhiệm kỳ)
chứ không ai nói miễn nhiệm. Miễn có nghĩa là “không” hay “không phải”. Thí dụ:
Miễn thuế là không phải đóng thuế. Miễn dịch là không phải nhập ngũ. Miễn tố là
không truy tố. Miễn chiến bài là treo bảng không đánh nhau. Miễn lễ là không cần
thủ lễ. Do đó, miễn nhiệm có thể gây hiểu lầm làmiễn trừ trách nhiệm cho
ai đó.
- Căn bản,
chính yếu biến thành cơ bản. Hai tiếng cơ bản được dùng tràn lan
trong mọi lãnh vực. Thí dụ: “Mọi việc gần như /hầu như đã hoàn thành”, bây
giờ trong nước, từ nhà quê đến con nít đều nói, “Mọi việc cơ bản đã
hoàn thành.” Giống như ông “Thạc Sĩ” nói chuyện vậy. Nhức đầu quá!
- Căn
nhà trở thành căn hộ. Căn nhà đắt giá trở thành căn hộ
cao cấp. Gia đình trở thành hộ dân. Nghe lạ hoắc, giống như người Tàu
nói chuyện với nhau.
- Cảng bốc dỡ
các kiện hàng trở thành cảng container
- Căng thẳng
thần kinh trở thành stress. “Gác chân lên tường 10 phút mỗi ngày để xả
stress” (VnExpress)
Nói như thế
người ta mới nể vì tưởng mình là dân Mỹ, hoặc các chữ “căng thẳng thần
kinh/căng thẳng đầu óc” đã bị xóa mất trong ngôn ngữ Việt Nam?
- Cao cấp trở
thành cấp cao (BBC tiếng Việt): Cố vấn cấp cao. (Thích đảo ngược chữ
nghĩa để làm ra vẻ mình khác đời)
- Cao Học (Master
Degree) trở thànhThạc Sĩ (Agregé) trênTiến Sĩ. Trước 1975, muốn có bằng Thạc
Sĩ, sau khi đậu bằng Tiến Sĩ (Doctor) phải thi để trở thành Giáo Sư Thực
Thụ của các đại học. Miền Nam trước 1975 chỉ có vài giáo sư Thạc Sĩ như
GS. Vũ Văn Mẫu, GS. Nguyễn Cao Hách, GS. Vũ Quốc Thúc, GS. Phạm Biểu Tâm và
Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ nhưng Tiến Sĩ thì khá nhiều. Ngày nay, ở Việt Nam,
hang cùng ngõ hẻm, xã ấp nhan nhản Thạc Sĩ. Ngày xưa “Ra ngõ gặp anh hùng”.
Ngày nay “Ra ngõ gặp Thạc Sĩ”. Thật kinh hoàng!
- Cầu thủ nước
ngoài trở thành ngoại binh. Thí dụ: “Ngoại binh nổ súng, Sài Gòn
FC quật ngã SHB Đà Nẵng” (Đài Tiếng Nói Việt Nam VOV). Đọc tiêu đề giật mình tưởng
lính Nga, lính Mỹ, lính Tàu tiến vào tấn công Việt Nam.
- Cặp tức
hai người trở thành cặp đôi = bốn người. Nếu có học sẽ nói bộ
đôi/một đôi tức hai người. Vì không có học cho nên nói cặp đôi tức
bốn người. Xin nhớ cho đôi là hai người như đôi bạn, đôi lứa, đôi
nơi, đôi ngả. Cặp cũng là hai người. Cặp gà = hai con gà, cặp bánh
chưng = hai chiếc bánh chưng, đóng cặp = hai tài tử thường đóng chung với nhau.
Như thế, “cặp đôi” là bốn người chứ không phải hai người.
- Câu độc giả,
câu khách trở thành câu view. Lai căng, mất gốc.
-
Cây trở thành cây xanh. Trồng cây trở thành trồng cây
xanh. Chặt cây trở thành chặt cây xanh. Đúng là tiếng Việt đổi đời!
Nếu theo đúng loại tiếng Việt đổi đời này thì phải nói: Chúng tôi vừa trồng
100 cây phượng xanh, 50 cây cau xanh , 50 cây dừa xanh và khoảng
10 cây chuối xanh. Rồi các loại cây ăn trái như ổi, nhãn, soài, đu đủ,…
trở thành “cây trồng”. Đúng là loại tiếng Việt điên khùng. Cây nào mà chẳng phải
trồng. Thậm chí hành, ớt, tỏi, cũng phải trồng. Thêm chữ “trồng” là điên rồ.
- Cây cảnh,
cây kiểng trở thành bonsai . Nếu cây trồng trong vườn, công viên cắt
tỉa theo kiểu cây cảnh/kiểng thì không thể gọi là bonsai vì bonsai là “bồn
tài” – nghĩa là “trồng trong chậu”. Bồn là chậu, tài là trồng.
- Chảo không
dính trở thành chảo chống dính. Trong nước cái gì cũng chống, Chẳng hạn,
thay vì nói, phòng ngừa ung thư lại nóiphòng chống ung thư. Thay
vì nói bài trừ ma túy lại nói phòng chống ma túy tức chỉ phòng ngừa và
chống lại chứ không bài trừ, tiêu diệt. Rồi “Làm thang sắt để tránh lấn
chiếm vỉa hè” trở thành “Làm thang sắt chống lấn chiếm vỉa hè” (Báo
Thanh Niên). Cũng giống như “Tôi đội nón để tránh nắng/che mưa nắng” nay trở
thành “Tôi đội nón để chống nắng”. Thật ngu đần! Làm sao chống được nắng? Chỉ
có che nắng hoặc tránh nắng mà thôi.
- Chạy tin
giật gân/đưa tin giật gân/ đưa lên tin hàng đầu trở thành chạy
tít, giựt tít.
- Chết trở
thành tử vong. Tai nạn làm bốn người chết trở thành tai nạn
khiến bốn người tử vong. Nói vậy mới tỏ ra mình giỏi tiếng Tàu à quên “tiếng
Trung”.
- Chết bất
ngờ, chết đột ngột trở thành đột tử. Ngã quỵ, ngất xỉu trở thành
đột qụy. Thích dùng chữ nghĩa khó khăn mà kêu gào tiếng Việt trong sáng.
- Chết đuối trở
thànhđuối nước. Cả ngàn năm nay cha ông mình, văn chương đều dùng hai chữ “chết
đuối” sao bây giờ bịa đặt thêm để làm gì? Đổi chết đuối ra đuối
nước có làm cho đất nước mình biến thành Mỹ, Âu Châu, Nhật Bản không? Một
trăm năm nữa cũng chưa chắc bằng Tân Gia Ba. Hãy đổi đầu óc, lối sống sao cho
đàng hoàng, tử tế, chân thật và có trách nhiệm. Đừng làm xáo trộn gia tài ngôn
ngữ của tổ tiên.
- Chi tiền,
trả tiền trở thành chi trả. Sao rắc rối quá vậy?
- Chiến cụ,
vật dụng chiến tranh trở thành khí tài. Từ điển Việt Nam trong nước
không có danh từ “khí tài”.
- Chính sửa,
cắt xén trở thành photoshop
- Cho lãnh sự
tiếp xúc/gặp gỡ trở thành “tiếp xúc lãnh sự” (VOA, BBC và các bản
tin trong nước). Đúng là tiếng Việt đổi đời.
- Cho máy chạy
lại, mở máy lại (restart) trở thành tái khởi động. Đúng là dốt hay
nói chữ.
- Choáng
váng, choáng ngợp chỉ còn choáng . Bát nháo quá đỗi! Đây là ngôn ngữ
của bọn đứng bến, mánh mung hay buôn lậu. Thế nhưng loại chữ bát nháo này lại
được phổ biến lan tràn trên các diễn đàn Yahoogroups ở hải ngoại.
- Chữ
nghĩa trở thành con chữ. Thí dụ: Nhà văn bắt đầu từ những con chữ.
Nếu thế thì các triết gia bắt đầu từ nhữngcon tư tưởng. Các nhà tâm lý bắt đầu
từ con phân tích (sự phân tích)
- Chưa đầy đủ,
còn thiếu sót, còn nhiều khuyết điểm trở thành bất cập. Đọc đoạn văn
“Việc xử lý xe quá tải vẫn còn nhiều bất cập” tôi thật sự không hiểu người
viết muốn gì. Trong nước thích dùng những chữ “bí hiểm” chỉ có mình hiểu, không
ai hiểu cả hoặc để che dấu sự thật. Chẳng hạn Miền Nam trước đây giảng dạy môn
Việt Văn (Vietnamese Language) cho học sinh từ Tiểu Học tới Trung Học. Ngày nay
các ông trong nước đổi thành Ngữ Văn. Nhưng định nghĩa thế nào là Ngữ Văn thì
giải thích lung tung. Một số giải thích: “Ngữ Văn”– Ngữ là ngôn ngữ
(Language), Văn là văn học (Literature), là nghành học nghiên cứu về ngôn ngữ
và văn học Việt Nam. Trong khi đó Ô. Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Đỗ Ngọc Thống lại nói
rằng đó là môn giống như đang được giảng dạy ở Trung Quốc, “Chúng tôi lấy
tên Ngữ Văn vì cho rằng nó có thể bao quát chung cho cả ngữ
và văn.” Giải thích như ông này thì thà không giải thích còn hơn. Ngữ
văn là ngữ và văn thì chẳng khác nào văn
chương là văn và chương. Thế mà cũng khoe bằng Tiến Sĩ.
Đã bao quát nghĩa là bao gồm rồi, lại còn chung. Ông này
nên học lại Việt Văn bậc Trung Học.
- Chứng tỏ
được trở thành khẳng định. Thí dụ: Thay vì nói, “Diễn viên X chứng tỏ được
tài năng của mình” lại nói, “Diễn viên X đã khẳng định được tài
năng”. Đúng là ngôn ngữ lộn sòng! Khẳng định là xác định một cách mạnh mẽ một sự
kiện, một lời tuyên bố. Còn tài năng thì phải chứng tỏ cho người ta
thấy.
- Chương
trình giảng dạy trở thành giáo trình. Nghe nói thấy mà mệt!
- Có thể (possible,
may happen) trở thành có khả năng. Thí dụ: Trời có thể mưa trở
thành trời có khả năng mưa. Trên diễn đàn của người Việt hải ngoại
25/1/2016: “Trung Quốc có khả năng trả đũa Hoa Kỳ ở Biển Đông”. Tôi không rõ
người viết tiêu đề này muốn nói, “Trung Quốc có đủ sức mạnh/khả năng đề trả đũa
Hoa Kỳ” hay, “Trung Quốc có thể (possible, may) sẽ trả đũa Hoa Kỳ”. Xin
thưa, khả năng (capable) là năng lực của một người. Thí dụ: Ông ta
không có khả năng làm việc.
- Có tổ chức,
có học, có nghiên cứu, quy củ, đâu vào đó trở thành bài bản. Chỗ
nào cũng nghe nói “bài bản”. Cả dân nuôi cá, nuôi tôm, trồng cây ăn trái,
mò cua bắt ốc cũng nói “bài bản”.
- Cô lập / để
riêng ratrở thành cách ly.
- Cô ta có
đôi mắt đẹp trở thành Cô ta sở hữu đôi mắt đẹp. Sao nói năng cầu
kỳ quá vậy?
- Coi trọng trở
thànhtrọng thị. Tiếp đón long trọng trở thành tiếp đón trọng thị. Xin nhớ
cho “thị” là coi, nhìn. Trọng thị là coi trọng. Một buổi lễ không thể là “coi
trọng” mà phải là “long trọng” hoặc “trọng thể”.
- Cờ bạc
lớn, sát phạt lớn, có tổ chức trở thành đánh bạc quy mô (Báo Tuổi Trẻ). Thật
lạ đời, đánh bạc mà cũng quy mô như các sòng bài ở Las Vegas vậy. Đúng là
dốt hay nói chữ.
Cỡ lớn, cỡ
nhỏ biến thành kích cỡ lớn nhỏ. Tôi không hiểu sao lại phải thêm chữ
“kích” vào đây trong khi nói cỡ lớn, cỡ nhỏ là người ta đã hiểu và hiểu
cả ngàn năm nay. Nghe các nông dân ở Miền Tây (bây giờ gọi là Nam Bộ) nói hai
chữ “kích cỡ” tôi vừa cười vừa rơi nước mắt vì dân Miền Nam trước đây chết hết
cả rồi!
- Con đường,
đoạn đường biến thành tuyến đường. Xin nhớ cho “tuyến” nghĩa là đường. Thí
dụ: Cát tuyến = Đường cắt. Trung tuyến = Đường ở giữa. Trực tuyến = Đường thẳng
đứng.
- Công
nhân đổi đời thành lao động. Rồi chủ nhân trở thành người sử
dụng lao động. Thí dụ: “Xí nghiệp A có 2000 lao động.” Trong khi từ điển tiếng
Việt trong nước định nghĩa lao động là “Sự khó nhọc đem ra để làm việc như giới
lao động”.
- Công
du trở thành thăm chính thức, thăm cấp nhà nước. Chỉ cần nói, thủ tướng… sẽ công
du Hoa Kỳ là người ta hiểu rồi… còn bày ra thăm chính thức, thăm cấp nhà nước. Công
du (state visit) là đi thăm một quốc gia khác vì việc công, việc của đất
nước, việc của chính phủ. Chẳng lẽ ông Chủ Tịch Nước đi chơi, thăm cấp tỉnh, cấp
bộ, cấp xã sao? Thật quái đản!
----------------------
(*) Tác giả Đào Văn Bình tốt nghiệp Cử Nhân Luật (1966) và Cao Học
Hành Chánh (1968), từ năm 1973-1975 đảm nhiệm chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Quảng
Ngãi và Kiến Hòa.
Ông Đào Văn
Bình (hiện định cư tại tiểu bang California) là một trong những người còn nặng
lòng với nền văn học trong sáng ngày xưa của Việt Nam, ông đã viết nhiều bài
phân tích thứ ngôn ngữ thổ tả của Việt cộng để cảnh tỉnh đồng bào tại hải ngoại
và nhất là giới truyền thông vô trách nhiệm, đã từ lâu vô tình hay cố ý tiếp tục
phổ biến loại chữ nghĩa của phường vô học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment