Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới muốn gặp, và khi đã gặp rồi thì “hai năm rõ mười,” nhận biết tỏ tường, sự thật minh nhiên, không thể chối cãi – đúng hoặc sai, yêu hoặc ghét. Đó là một quy trình đơn giản mà cần thiết, có mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Trong cuộc sống đời thường, có nhiều
dạng khoảng cách – địa lý, tinh thần, tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta đi được
khoảng cách xa bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp
dọc đường, qua đó chúng ta sẽ nhận biết được gì?
Quả thật, sự nhận biết rất quan trọng. Sống ở đời không thể không gặp gỡ
nhau, nhưng gặp nhau rồi có nhận biết nhau hay không lại là chuyện khác.
Gặp nhau chắc chắn nhìn thấy nhau, và
thường liên quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt,
bằng động thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong
sự im lặng, gọi là “ngôn ngữ không lời.”
Người ta gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp
nhau để nhận ra nhau, để yêu thương, để chia sẻ với nhau, để giúp đỡ nhau, để
biến đổi nhau,… Rất đa dạng. Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được
gặp gỡ Thiên Chúa, đặc biệt là nhận biết chính Đức Kitô là Đấng Phục Sinh.
Chắc chắn cuộc gặp gỡ đó rất diệu kỳ,
cuộc gặp gỡ đó có sức mạnh khó cưỡng lại, và cuộc gặp gỡ đó đã được Lm Ns Yuse
Tiến Lộc (DCCT) mô tả trong một ca khúc thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn
tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình, gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh
tình đệ huynh,” (Gặp Gỡ Đức Kitô)
Cuộc gặp gỡ đó có kết quả tốt: nhận
biết Đức Kitô qua tha nhân. Quá trình gặp gỡ Đức Kitô còn là một dạng được sống
lại – tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của Ladarô, (Ga 11:1-44) em
trai của Mácta và Maria, và con trai bà góa thành Nain (Lc 7:11-17) chỉ là sống
lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống
lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể
và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì
thế mà chính Chị Maria Mácđala và hai môn đệ trên đường Emmau đều không nhận ra
Thầy Giêsu của mình, mặc dù rất quen. Chị Maria Mácđala chỉ có thể nhận ra Ngài
khi Ngài gọi đích danh mình bằng giọng nói thân thương và quen thuộc, còn hai
môn đệ kia chỉ có thể nhận ra Ngài khi Ngài làm động tác quen thuộc: bẻ bánh.
Và thậm chí còn hơn như thế nữa. Thật vậy,
khi các tông đồ thấy Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại
kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma và ngờ vực. Nỗi lo sợ đã khiến họ hoa mắt
chăng? Cửa thì đóng kín, thế mà bỗng dưng có người “đi xuyên tường.” Thế thì ma
thật!
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu mỉm cười vì
thấy các đệ tử co rúm vào nhau, mắt chữ O mà miệng chữ A. Ngài thấy tội nghiệp
các trò lắm, thế là Ngài cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương thịt và
Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề mộng du
và tin là Thầy mình đã sống lại thật. (Lc 24:36-43) Thân xác phục sinh khác
thật và lạ thật đấy, nhìn giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai
nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!
Trong cuộc sống, bất kỳ ai gặp gỡ Đức
Kitô thì đều biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự
chứ không “có vẻ.” Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô.
Biến đổi ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng
về Chúa, chứ không “tỏ vẻ biến đổi” để “lấy tiếng” hoặc để được người khác khen
ngợi.
Cuộc đời các thánh đã cho chúng ta
biết chắc về việc họ được gặp gỡ Đức Kitô một cách thần bí. Vâng, cuộc đời họ
biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ, thậm chí có những
vị thánh bị nghi ngờ là tâm thần. Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi
là chân lý. Không thật thì không bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật
được!
Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu
tín cẩn trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám
liều chết với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược
khi Thầy bị bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp gỡ
và nhận biết Đức Kitô Phục Sinh thì ông hoàn toàn khác hẳn, không còn nhát đảm
như trước. Cụ thể là vào một ngày nọ, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không
còn Giuđa Ítcariốt), và lớn tiếng nói với họ: “Thưa anh em, miền Giuđê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem,
xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.” (Cv 2:14)
Sự biến đổi rất rõ nét. Ông Phêrô dõng
dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng
bào Israel, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nadarét, là người đã được
Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa
đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh
em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy
đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết
đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau
khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không
tài nào khống chế được Người mãi. Quả vậy, vua Đavít đã nói về Người rằng:
Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao
lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng
nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi
âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.”
(Cv 2:22-28)
Một Phêrô của ngày hôm nay hoàn toàn
biến đổi tích cực chứ không còn là một Phêrô hèn nhát và tiêu cực của ngày hôm
qua. Ông thực sự trở nên một nhân chứng sống động, một nhân chứng nhiệt thành. Quả
thật, khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì
khác, kể cả cái chết.
Tiếp theo, ông Phêrô nói với giọng điệu
quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em
về tổ phụ Đavít rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa
chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề
với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên
người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã
không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức
Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền
nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều
anh em đang thấy, đang nghe.” (Cv 2:29-33) Thật tuyệt vời khi người ta được
Thiên Chúa biến đổi!
Chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng khi
chúng ta hoàn toàn tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là
“triệt buộc.” Nghe chừng miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt
buộc” của tình yêu, của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn
toàn tín thác nơi Ngài và chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót
khôn lường của Ngài – hoàn toàn có lợi cho chúng ta chứ chẳng thêm gì cho Ngài.
Khi đã gặp gỡ và nhận biết Đấng Kitô Phục Sinh, đồng thời tín thác vào Ngài, chúng
ta sẽ không thể không vui mừng thân thưa: “Lạy
Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa:
Ngài là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2)
Tại sao như vậy? Bởi vì lúc đó chúng
ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích của cuộc
đời chúng ta: “Lạy Chúa, Ngài là phần sản
nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài
nắm giữ.” (Tv 16:5) Do đó, chúng ta có thể không ngần ngại mà thề hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được
Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân
hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong
cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con
biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài,
hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11) Niềm tin tưởng như vậy thật là tuyệt
vời, niềm tín thác như thế đẹp biết bao!
Một khi đã thực sự tin tưởng nhau,
người ta có thể gặp gỡ nhau bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức
độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai “ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn –
“ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn, giàu có hơn hoặc “vai vế” hơn người khác. Thế nhưng
Thiên Chúa không hề như vậy, đừng lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ
nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ
nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn người khác. Ảo tưởng thì chết chắc!
Thật vậy, Thánh Phêrô đã thẳng thắn: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy
nếu anh em gọi Người là Cha, anh em hãy
đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ khách này.” (1 Pr 1:17) Rất rõ
ràng, rất rạch ròi, rất nghiêm túc, rất công bình.
Và rồi ông còn giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những
của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù
phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ
tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa
được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã
cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt
niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” (1 Pr 1:18-21) Nghe có vẻ “dài dòng”
một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào. Thế mới lạ!
Tin tức về Đức Giêsu chịu chết làm
rúng động dân chúng, tin tức đó chưa đủ lắng xuống thì tin tức về sự phục sinh
của Ngài lại tiếp tục khuấy động lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ
khác. Nhưng cũng chính ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng
Emmau, cách Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả
những sự việc mới xảy ra. Họ cũng thấy thất vọng vì không biết tương lai ra
sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ
thế nào. Tướng mất thì quân cũng tan hàng. Buồn thật!
Trình thuật Lc 24:13-35 cho chúng ta biết
rằng đang lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến
đến gần và cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài thử “giả nai”
mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi
với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách
lạ này là người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi
mà ông ta lại chẳng biết gì ráo trọi. Sao lại có người vô tâm vô tính thế nhỉ?
Nghe “người lạ” hỏi vậy, một trong hai
người tên là Cơlêôpát trả lời: “Chắc ông
là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy
ra trong thành mấy bữa nay.” Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?” Họ kể lại vụ ông Giêsu
Nadarét là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt
Thiên Chúa và toàn dân, thế mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho
Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng
chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay
là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra
mộ hồi sáng sớm, nhưng không thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy
thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà
ấy nói; còn chính Ngài thì họ không thấy.”
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh
thật là chậm tin vào lời các ngôn
sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh
quang của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Ngài
giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà
hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!
Chúng ta cảm thấy “nhột” và phải giật
mình khi thấy Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin.” Thật vậy, cuộc sống đời và
đạo cứ hằng ngày trôi qua, chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành
quen, đến nỗi mọi thứ trở thành như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn
cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, ngay cả việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành
động của con robot được lập trình sẵn, hoặc đọc kinh như được nhấn play, gắn
thẻ nhớ hoặc gắn USB, rồi cứ thế mà “phát âm” vậy thôi. Và rồi chúng ta vẫn cho
rằng mình đang sống đức tin, nhưng khi gặp chuyện gì không xuôi xắn “như ý”
mình thì chúng ta lại… ngại ngần. Ôi chao, hóa ra chúng ta vẫn “chậm tin” lắm,
chẳng oan ức chi cả!
Thánh sử Luca cho biết rằng khi gần
tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép
Ngài ở lại với họ vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn
tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở
ra vì thấy hành động này quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy
Giêsu, nhưng rồi Ngài lại biến mất. Tiếc hùi hụi! Họ gãi đầu gãi tai và bảo
nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và
giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
Thế là ngay lúc ấy, họ liền đứng dậy,
quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.
Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi
dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn.” Còn hai ông thì thuật lại những
gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh.
Thế là mọi vấn đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!
Người ta nói rằng Chữ phải có Nghĩa –
gọi là chữ nghĩa. Trong Việt ngữ, chữ “gặp gỡ” cũng độc đáo quá chừng luôn: GẶP
để GỠ chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ
được. Tương tự, NHẬN thì phải BIẾT, nếu KHÔNG BIẾT thì chắc hẳn “có vấn đề.” Những
người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi hoàn
toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài, bởi vì họ nhận biết Ngài. Họ
được “gặp” Đức Kitô Phục Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ
để trở nên con người mới hoàn toàn. Họ nhận biết Ngài nên họ cũng muốn nên
giống Ngài hoàn toàn!
Lạy Thiên
Chúa, xin cho con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà con gặp hằng ngày, nhất là đối
với những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp con cũng nhận thấy Ngài sống
động nơi con. Xin giúp con biết CẦM LẤY tấm-bánh-cuộc-đời-mình, rồi TẠ ƠN Chúa,
sau đó BẺ RA và TRAO CHO mọi người, đồng thời can đảm làm nhân chứng về Đức
Kitô Phục Sinh. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu
độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment