Thứ Năm Tuần Thánh (Maundy Thursday) còn gọi là Thứ Năm Giao Ước, Thứ Năm Tuyệt Đối, hoặc Thứ Năm của các Mầu Nhiệm. Theo La ngữ, chữ Mandatum (Anh ngữ là Maundy) có nghĩa là “điều răn” hoặc “mệnh lệnh.” Thứ Năm Tuần Thánh muốn nói tới mệnh lệnh mà Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly: “Hãy yêu thương nhau.” (Ga 13:34; Ga 15:12; Ga 15:17) Đó là DẤU TÌNH được Chúa Giêsu “khắc ghi” qua Bí tích Thánh Thể (chân thành yêu thương) và Rửa Chân (khiêm nhường phục vụ). Và Ngài gọi đó là Điều Răn Mới. Có thể gọi Thứ Năm Tuần Thánh là Ngày Tình Yêu Thánh của các Kitô hữu.
Tuần Thánh khởi đầu, đỉnh cao là Tam Nhật
Vượt Qua – ba ngày cao điểm của Phụng Vụ, với các sắc màu khác nhau: khởi đầu
là Thứ Năm Tuần Thánh mang sắc màu Vui, tiếp theo là Thứ Sáu Tuần Thánh mang
sắc màu Thương, và đêm Thứ Bảy Tuần Thánh mang sắc màu Mừng.
Như chúng ta biết, Thứ Năm Tuần Thánh là ngày
Vui, buổi sáng là Thánh Lễ Truyền Dầu, rồi buổi chiều là Thánh Lễ kỷ niệm Chúa
Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, cũng là ngày tưởng nhớ Bữa
Tiệc Ly. Trong niềm vui có lẫn nỗi buồn, tạo cảm giác rất khó tả, đặc biệt là trong
đó có sự quyến luyến của cuộc chia tay giữa Thầy và trò.
Còn nữa, Thứ Năm Tuần Thánh còn là ngày Chúa
Giêsu dạy bài học yêu thương độc đáo, vì Ngài không chỉ dạy bằng lời nói mà dạy
bằng HÀNH ĐỘNG cụ thể, chứng minh lời Ngài đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ
và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28; Mc 10:45) Yêu
thương và Phục vụ là hai “điểm nhấn” của ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Ai yêu thương
thì sẵn sàng phục vụ, ai phục vụ là chứng tỏ yêu thương. Mối tương tác tất yếu
tuyệt vời!
Khi còn sinh thời, Thánh GH Gioan Phaolô II đã
nhấn mạnh đến chức vụ phục vụ của
mình là “Tôi Tớ của Các Tôi Tớ của Chúa – Servus Servorum Dei.” Ngài không tự
xưng bằng đại danh từ “chúng tôi” như các giáo hoàng trước mà dùng đại danh từ
“tôi.” Ngài chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và không đội
mũ giáo hoàng khi đảm nhiệm. Là giáo hoàng nhưng ngài không muốn được phục vụ,
thể hiện đức khiêm nhường. Khi nhậm chức giáo hoàng, các hồng y quỳ gối trước
ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, nhưng ngài đứng dậy khi ĐHY Stefan Wyszyński
(người Ba Lan) quỳ gối, ngăn hồng y này hôn nhẫn và ôm hồng y này. ĐGH Phanxicô
cũng đã thể hiện rõ nét khiêm nhường, nghèo khó, và cũng không muốn ai phục vụ
mình. Đó là các tấm gương sáng về nhân đức khiêm nhường và tinh thần phục vụ.
Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon
trên đất Ai Cập: “Tháng này, các ngươi
phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn
thể cộng đồng Israel: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia
đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con thì chung
với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo
sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn,
phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải
nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Israel
đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt
chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau
đắng.” (Xh 12:1-8)
Dân nào cũng có những phong tục khác nhau
theo văn hóa của mình. Với dân Chúa, cách ăn uống cũng khác, họ làm theo lời
Chúa căn dặn: “Các ngươi phải ăn thế này:
lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã, Đó là lễ
Vượt Qua mừng Đức Chúa.” (Xh 12:11)
Đối với dân tộc Việt Nam, chúng ta không có
tục lệ như vậy, nhưng vẫn không thấy lạ. Chiên hay dê một tuổi là con vật còn
nhỏ, còn toàn vẹn và vô tư như đứa trẻ, máu của con vật tinh tuyền được bôi lên
cửa làm dấu hiệu để gia đình đó được thoát tai họa: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai Cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong
đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập:
vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có
các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương
tiêu diệt khi Ta giáng họa trên đất Ai Cập. Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày
tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày
lễ này. Đó là luật quy định cho đến muôn đời.” (Xh 12:12-14)
Đã được báo trước về cách tránh tai họa như
vậy thì thật là đại phước. Ai không làm theo là cố chấp, ai làm theo là biết
vâng phục và tất nhiên được hưởng lợi ích. Đối với Thiên Chúa, chúng ta chẳng
là gì cả, nhưng chúng ta vẫn không ngừng được Ngài ban tặng biết bao hồng ân. Thánh
Vịnh gia cũng đã có kinh nghiệm đó nên tự hỏi và tự quyết định: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn
lành Người đã ban cho? Con xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh
Chúa.” (Tv 116:12-13) Vâng, chắc chắn không lễ vật nào xứng đáng bằng những
gì đến từ Thiên Chúa.
Thánh Vịnh gia thành tâm khấn hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người. Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai
trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của
nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi.” (Tv 116:15-16) Để
phù hợp với Cựu ước, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)
Cuộc sống có nhiều cách chết, chúng ta cũng
phải “chết” cho nhau hằng ngày, vì mọi người đều là “người yêu” của nhau. Trong
ngày trọng đại này, mỗi chúng ta hãy cùng với Thánh Vịnh gia chân thành thân
thưa với Thiên Chúa: “Con sẽ dâng lễ tế
tạ ơn và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.” (Tv 116:17-18) Lòng biết ơn rất quan trọng nhưng
người ta lại hay quên – có khi vô tình, có lúc cố ý. Và vẫn còn đó gương mười
người được ơn chữa lành nhưng chỉ có một người biết ơn, mà người này lại là
người ngoại! (x. Lc 17:11-19)
Cũng với tâm tình tri ân, Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi
Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.’
Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ‘Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra
để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ
đến Thầy.’ Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này,
là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết.” (1 Cr 11:23-26)
Thánh Phaolô trình bày lại khung cảnh Bữa
Tiệc Ly năm xưa đầy ắp thâm tình. Cách riêng, bữa dạ tiệc này có hai loại “món”
vô cùng đặc biệt: Yêu Thương và Phục Vụ. Hai món này rất ngon, chắc chắn ai
cũng thích dùng, thế nhưng lại rất khó chế biến.
Có một điều xác định rất lạ. Chết là buồn
đau, là chiến bại, là cùng đường, vậy mà lại cần loan truyền ư? Đây là loại
nghịch-lý-thuận sẽ không thể hiểu nếu không có đức tin Kitô giáo. Chết không
như người ta lầm tưởng, chết ngỡ như thua thiệt, là thất bại ê chề, nhưng chính
cái chết lại là biên giới qua Bến Phục Sinh, là nhịp cầu tới Miền Sự Sống, là
cửa ngõ vào Cõi Trường Sinh. Vô cùng kỳ diệu!
Trước khi vào Cõi Sinh (vùng sống) phải qua
Cõi Tử (miền chết), nhưng trước khi qua Vùng Chết phải trải nghiệm Ải Đau Khổ.
Đó là loại Tam Giác đặc biệt: Tam-Giác-Sống-Chết.
Trình thuật Ga 13:1-15 cho biết: Trước lễ
Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với
Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài
yêu thương họ đến cùng. Với nhân tính, chắc hẳn Ngài cũng lưu luyến lắm, nhất
là với các đệ tử đã chia ngọt sẻ bùi suốt ba năm ròng. Nhưng điều gì đến sẽ
đến, cuộc vui nào cũng tàn, sum họp rồi chia ly, đó là lẽ thường ở đời thôi!
Tuy nhiên, ma quỷ đã gieo vào lòng tông đồ Giuđa,
con ông Simôn Ítcariốt, ý định nộp Thầy Giêsu. Đức Giêsu biết rằng Chúa Cha đã
giao phó mọi sự trong tay Ngài, Ngài bởi Thiên Chúa mà đến và sắp trở về cùng
Thiên Chúa. Trong tiệc mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ, và cũng là Bữa Tiệc Ly,
bữa ăn cuối cùng của Ngài trên thế gian và bữa cuối cùng đồng bàn với các môn
đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra và lấy khăn mà thắt lưng, rồi Ngài
đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
Một hành động rất lạ, chắc hẳn các môn đệ cũng chỉ thấy lạ chứ không thể biết
đó là “điềm báo” của một người sắp chết.
Chuyện kể hôm nay là câu chuyện mà ai cũng
thuộc nằm lòng, mặc dù có thể không chính xác từng chữ. Khỏi kể lại thì ai cũng
đã biết, bởi vì mới nghe kể câu đầu đã có thể biết rõ kết thúc. Thế nhưng câu
chuyện này vẫn luôn thu hút bất kỳ ai. Từ Phòng Tiệc Ly tới Vường Dầu, từ Vườn
Dầu tới Dinh Caipha và Philatô, và từ đó tới Đồi Sọ, ai cũng biết diễn biến thế
nào, thế nhưng người ta cứ nghe mãi và đọc mãi cuốn truyện đó mà không chán.
Một điều rất lạ!
Một cuốn truyện hoặc một bộ phim hay tới mức
nào thì người ta cũng chỉ đọc hoặc xem một lần, nhiều lắm cũng chỉ hai lần là
thấy nhàm chán. Vậy mà với bộ Phúc Âm (và Kinh Thánh), người ta càng đọc càng
thấy thú vị, càng nhận thấy cái mới. Tương tự, đối với Thánh Lễ cũng vậy, dù
không tham dự cũng biết trình tự như thế nào. Thế mà càng tham dự càng thu hút,
chẳng ai chán vì đi lễ nhiều bao giờ. Đúng là phép lạ thật!
Và câu chuyện bi hùng được tiếp diễn…
Ngay khi Chúa Giêsu bưng chậu nước đến chỗ
ông Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy!
Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” Nhưng Ngài bảo: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.”
Ông Phêrô cương quyết không để cho Thầy rửa chân cho mình, vì có đời nào lại có
chuyện ngược đời như vậy được! Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.”
Nghe vậy, ông Phêrô nói ngay: “Thế thì xin
Thầy cứ rửa, không chỉ rửa chân mà rửa cả tay và đầu con nữa.” Đúng là
người có bản tính “thẳng như ruột ngựa,” nghĩ sao nói vậy. Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa;
toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải
tất cả đâu!” Thật vậy, Ngài biết ai sẽ nộp Ngài nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”
Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức
Giêsu mặc áo vào rồi về chỗ, và Ngài nói: “Anh
em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa,
điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là
Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã
nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga
13:12-15) Những lời Chúa Giêsu nói nghe rất nhẹ nhàng nhưng lại có sức khiến
chúng ta “nhức tai,” “buốt óc” và “nhói tim” lắm! Thật vậy, chữ Yêu Thương rất
ngắn gọn, xem chừng rất đơn giản, nhưng để thực hành cho đúng ý Thầy Giêsu thì
không hề đơn giản, vì vậy mà chúng ta phải cố gắng không ngừng, phải cố gắng qua
từng nhịp thở vậy.
Tương tự, chữ Phục Vụ cũng ngắn gọn lắm,
nhưng có hai vế: Phục vụ và được phục vụ. Không ai “ưa” vế thứ nhất, nhưng ai
cũng thích vế thứ nhì. Bản tính con người đâu dễ “lèo lái,” do đó mà thực hiện
“bổn phận phục vụ” mãi vẫn thấy “căng” lắm, thậm chí có người còn chỉ “chăm
chú” làm ngược lại là “thích được người khác phục vụ.” Ôi, lạy Thiên Chúa!
Được biết, tại phòng thánh của nhà dòng, Mẹ Thánh
Teresa Calcutta đã ghi lời nhắc nhở: “Xin
các linh mục hãy dâng mỗi Thánh Lễ như Thánh Lễ đầu tiên và như Thánh Lễ cuối
cùng trong đời.” Đúng là ý tưởng của thánh nhân, thật là thâm thúy đầy tính
tâm linh, nhưng đó cũng là lời nhắc nhở “đáng phải giật mình” lắm đấy, bất kể
là ai – tức là cả giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân!
Thứ Năm Tuần Thánh là một ngày đặc biệt để
xét mình về bài học Yêu Thương và Phục Vụ mà Chúa Giêsu đã dạy, bài học vô giá
đó vẫn luôn nóng bỏng ngay trong thời đại ngày nay. Ai cũng phải thuộc lòng và thi
hành triệt để bài học này của Thầy Giêsu. Yêu mến Chúa và lưu luyến Ngài thì phải
thực hiện lệnh Ngài truyền, đó là điều hoàn toàn hợp lý, vì có vậy mới chứng tỏ
tình yêu mà chúng ta dành cho Ngài!
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, xin đổi mới con nên giống Chúa mỗi ngày một hơn, xin khơi
“lửa tình” để con say yêu Thánh Thể, nguồn sống dồi dào cho con vì biết nhờ
Ngài, với Ngài và trong Ngài, đồng thời xin giúp con quyết tâm thực hiện bài
học Yêu Thương và Phục Vụ đúng theo Tôn Ý Ngài. Con tin kính Ngài là Đấng cứu
độ, hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn
thuở muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
▶ PANGE LINGUA của Thánh Thomas Aquino
No comments:
Post a Comment
Comment