Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu
tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha
trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỷ tín không chỉ riêng cho
Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng”
của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Emmanuel, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy
chúng ta cầu xin biết SỐNG KHIÊM NHƯỜNG.
Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin
vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Dacaria và bà
Êlidabét (còn gọi là Isave) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là
tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui
sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ
khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!
Đối với hỷ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca
“Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Dacaria. (Lc 1:68-79) Đối với hỷ tín thứ nhì
(nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có
thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa,
một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi
chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh,” có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm
kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ
tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Êlidabét đã xác
nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân
Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43) Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng
kỳ diệu!
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã nói với vua Akhát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” (Is
7:11) Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” (Is 7:12) Đó
là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần
phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.
Ngôn sứ Isaia đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đavít! Các ngươi làm
phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì
vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ
mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7:13-14)
Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng
ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ,
tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác
thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ
“gia vị.” Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không
xương nhiều đường lắt léo.” Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi
này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc
sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế
cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy
“người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!
Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày
lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao?
Đúng như thế! Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng
giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày
tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sự ở giữa
chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.
Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm
nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo
khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh
Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và
lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con
liền thưa: ‘Này con xin đến!’ Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm
theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.” (Tv
40:7-9) Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít
nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc
2:19) Quả thật, im lặng là vàng!
Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh
bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con
loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng
làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng
con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng
đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương.” (Tv 40:11) Đây cũng phải là
quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là
loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng
Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện, là đem Chúa đến với người khác để họ khả
dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá
được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ
và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn
thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến
để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10:4-7) Vì vâng
lời, cậu bé Samuel đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt.” (1 Sm
3:18) Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!
Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh
Phaolô dẫn chứng: “Trước hết, Đức Kitô
nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng
thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi
Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ
tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu
Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” (Dt 10:8-10) Với
tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng,” vì ý Chúa
chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có
sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng.”
Qua trình thuật Lc 1:26-38, Thánh sử Luca cho
biết: Bà Êlidabét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến
một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một
người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần
vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên,
hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, Thôn nữ Maria rất
bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp
lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên
là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì
nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức
Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc
ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Thế nhưng sứ
thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống
trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh
sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Êlidabét, người họ hàng với Chị,
tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng
là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ
GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC.”
Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi
ngờ và cũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38) Một câu nói đầy ắp sự can
đảm với tầm nhìn tương lai rộng lớn. Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định
mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng
“xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gabriel từ
biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian
khó. Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà
Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos). Thật diễm phúc
cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên
Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta
là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống.” (2 Cr 6:16)
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc
sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết
xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng
đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu
Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment