Cuộc đời phàm nhân có nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng đa dạng và khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải khát. Cơn khát của Chúa Giêsu là cơn khát đặc biệt, liên quan cả thể lý lẫn tinh thần: “Tôi khát!” (Ga 19:28)
Về thể lý, khát là trạng thái thiếu nước.
Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi là giải khát. Đồ uống
cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày hơn nhịn khát. Ngày
nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho
khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho
những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi.
Điều đó là động thái rất đơn giản và chỉ là
“chuyện nhỏ,” nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào những ngày hè nắng nóng,
như tục ngữ Việt Nam ví von: “Nắng tháng
Ba, chó già le lưỡi.” Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành
cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai
cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ
một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh
em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:42) Thật là tuyệt vời!
Về tinh thần, cơn khát đa dạng hơn (hạnh
phúc, tình yêu, danh vọng, sự nghiệp,…), và cũng cấp bách lắm. Plato (khoảng
427-347 TCN, triết gia cổ đại Hy Lạp) phân tích: “Hành vi của con người bắt đầu từ ba nguồn chính: khao khát, cảm xúc và
tri thức.” Còn Denis Diderot (1713-1784, văn sĩ kiêm triết gia người Pháp)
xác định: “Chỉ có một khát khao, khát
khao hạnh phúc. – Il n'y a qu'une passion, la passion du bonheur.”
Cơn khát thể lý cấp bách, nhưng cái khát về
tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (có thể là
“nhân tai” nhưng người ta đổ lỗi cho Ông Trời), không mưa nên thiếu nước, đất
đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng nguy hiểm hơn, vì đó là
“nhân tai” (chắc chắn cái này chỉ là “nhân tai” mà thôi). Và rồi chỉ có Mưa
Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi hạn hán. Chúng ta phải thực sự khát
Ngài.
CƠN KHÁT THỂ LÝ
Thời Cựu Ước, trong hành trình sa mạc, dân khát
nước nên đã kêu trách ông Môsê: “Ông đưa
chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng
tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4) Nắng đồng
bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là
như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Môsê cũng
“ngán” lắm nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con
phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh
17:4)
Đá luôn có sẵn, vùng sỏi đá có khác, muốn “chơi”
thì cứ việc lấy đá chọi thẳng tay ngay. Chả biết phải trái thế nào, lạng quạng
là chết chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội nghiệp, Đức Chúa phán với ông Môsê:
“Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem
theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin,
và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khôrếp.
Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” (Xh
17:5-6) Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Ông Môsê nghe vậy và làm y chang trước
mắt các kỳ mục Israel. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là
Maxa và Mơriva, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Israel đã dám gây sự
và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức
Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7) Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ
sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta cũng đã có lúc “đặt vấn đề” về
đức tin như vậy!
Có lẽ chúng ta cho rằng dân Israel “uống
thuốc liều” quá chỉ định, vì dám gây sự và thử thách Chúa. Đúng là “bán trời
không cần văn tự.” Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn hơn họ nữa
đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như nối các
bóng điện, dạng “họa vô đơn chí,” chắc hẳn cũng đã có những lần chúng ta bị
“lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng
bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người
ta chỉ ảo tưởng?” Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã
từng dám thốt thành lời: “Trời không có
mắt, trời mù!” Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như vậy không phải là
chúng ta “liều mạng” hơn dân Israel sao? Chẳng oan ức chi mô!
Việc ăn năn sám hối không là động thái chỉ
được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,… mà phải được thực hiện
không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào
cũng là mùa sám hối, ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm
(cấm phòng). Đó là sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng
rể. (x. Mt 25:1-13) Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để
“đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê,” do đó mà có
nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một lần, đồng thời xưng tội và rước lễ
trong Mùa Phục Sinh.
Chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa khi nhìn vào
vạn vật, thiên nhiên. Đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không
gì có thể sống được một lúc. Cái cực tiểu nhưng lại là cực đại. Còn những thứ
khác như ánh sáng, không có ánh nắng thì ai cũng như mù vậy. Vì thế, hãy nghe
lời tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến
đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh
Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Thánh
Vịnh này phổ biến, quen thuộc, vì được Giáo Hội sử dụng hằng ngày trong Giờ
Kinh Phụng Vụ.
Không thể im lặng, tác giả Thánh Vịnh nói
thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục,
quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta
thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv
95:6-7a) Trong Mùa Chay, chúng ta thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa
phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi
tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc
Ta làm.” (Tv 95:7b-9) Và Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây thời kỳ Chúa thi ân, Thời gian cứu độ
dành phần cho ta.” (2 Cr 6:2)
Khi đề cập Mơriva và Maxa tức là nhắc nhở
chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa.” Không dám làm vậy là chúng ta
bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi thứ: Tin Chúa
(tín thác) → Thương
người → Tha
thứ (thương xót tha nhân) → Thánh ân (được hưởng) → Trắng án (sạch tội) → Trường
sinh (nên thánh, làm công dân Nước Trời). Một chuỗi những chữ T kỳ
diệu!
CƠN KHÁT TINH THẦN
Chấp nhận hay từ chối, đó là tin. Đức tin
thật kỳ diệu, vì đó là một trong các “mối phúc ngoại lệ,” [*] và vì đức tin có
khả năng làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin,
chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì
chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên
Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng
được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:1-2)
Để dễ hiểu và có thể hiểu thấu đáo, Thánh
Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế,
chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào
lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta
không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức
Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có
ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội
lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5:8)
Khi đọc các thư của Thánh Phaolô, chúng ta
thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, mạch lạc. Quả thật, tình yêu của Thiên
Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và chúng ta gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Đã có
lần Chúa Giêsu minh định: “Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình.” (Ga 15:13) Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết
thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai,” rất khác lạ. Sẵn sàng tha thứ là
làm thánh rồi đấy!
Như một đoạn phim thú vị về tính nhân bản và
niềm khát khao, trình thuật Ga 4:5-42 nói về phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu bên
giếng nước và được Ngài ban cho loại nước trường sinh bất tử, uống vô hết khát
liền.
Thánh sử Gioan cho biết: Một hôm, Chúa Giêsu đến
thành Xykha thuộc xứ Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse và
có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng,
còn các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng
như lửa thiêu.
Lúc đó có một người phụ nữ Samari đến lấy
nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước
uống sao?” (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi dịch Kinh Thánh thôi, chứ Chúa
Giêsu lúc đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì chắc là phụ nữ ngoại giáo kia
sẽ dùng hai đại từ là Anh và Em hoặc Tôi). Tại sao chị ấy ngạc nhiên? Vì thời
đó, người Do Thái không được giao thiệp với người Samari. Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và
ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người
ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống.” Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi
Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự
thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ
THẬT.” (Ga 18:38)
Cô nàng vô danh người Samari còn thắc mắc rằng
Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị
không hiểu ý Chúa Giêsu. Rồi chị còn chứng minh rằng tổ phụ Giacóp với cả con
cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Đức Giêsu lại cười rất hiền, và
trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này
sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy.”
Chị gãi đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ
dữ nghen!” Không lạ sao được, thế mới đáng nói chứ!
Ôi chao, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác,
hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chắc hẳn chị cảm
thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy có gì đó rất kỳ lạ. Và chị nói
với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi
thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chả bảo cho
hay không cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ “mình
ên” thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài nói
“toạc móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang
sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa
nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải
thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận
ngay trước mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy
ông thật là một ngôn sứ.”
Và không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều
“ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem
mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng
dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!
Sau đó, Đức Giêsu nghiêm sắc mặt và nói “dài
hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin tôi: đã
đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng
chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và
chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người
như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng
trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh Thánh
nữa nghen, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi chị còn
nghiêm túc thưa: “Tôi biết Đấng Mêsia,
gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”
Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Chị này diễm
phúc quá xá luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Sướng rơn!
Câu chuyện vừa tới đó thì đúng lúc các môn đệ
đi chợ về, lỉnh kỉnh đồ ăn và thức uống. Các ông ngạc nhiên vì thấy Sư Phụ nói
chuyện với một phụ nữ. Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi nửa lời.
Sau đó, người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ vò
nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ,” rất giống Đấng
Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy
hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít
gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm khát khao lâu nay,
nhất là chị Hai ngoại giáo.
Đã quá trưa rồi, chắc là ai cũng đói meo, thế
nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin mời
Thầy dùng bữa.” Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn
đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã
có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán chè
rồi, chả cần gì nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là THI
HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn
thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25) Dĩ nhiên Ngài rất thông
cảm cho các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!
Thánh sử Gioan cho biết rằng, hôm đó có nhiều
người Samari trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: “Ông
ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.” Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng
thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới THẤU SUỐT MỌI SỰ, (1 Sb 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1;
2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn
21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr
12:4-6) từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của con
người.
Ngày hôm đó, dân Samari xin Ngài ở lại với
họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Đức
Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại giáo: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng
tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Chả có vấn
đề gì, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng
ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu
sĩ, cán bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cỡ, xấu
hổ? Thiên Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI
được thôi.
Khi đề cập niềm khát khao, chúng ta còn nghe
văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Sọ năm
xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Đó là nỗi
“khát tình.” Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người, nhưng người ta
không lưu ý. Ngài còn có cái khát khác thường là “khát đau khổ,” Ngài bằng lòng
uống “chén đắng,” không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta
lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm
chua, (Ga 19:29) và ứng nghiệm lời tác giả Thánh Vịnh than thở thuở xưa: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con
khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22)
Trong Mùa Chay, ước gì mỗi người đều biết
thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như chị Hai Samari và
dân thành Xykha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng
sống.” (Tv 42:3) Chị Hai và dân thành Xykha tin vào “Người Lạ” là rất hợp lý,
là “đúng ý Chúa.” Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài,
nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỷ xả” với chúng ta: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3)
Và tất nhiên chúng ta không thể không “hỷ xả” với người khác.
Thánh LM Thomas Aquinas (1225–1274, Tiến Sĩ
Giáo Hội) đã soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế này: “Con bệnh tật tìm đến Bác Sĩ
Sự Sống, con không tinh tuyền tìm
đến Giếng Nước Lòng Thương Xót, con mù
lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo nàn và thiếu thốn
tìm đến Chúa Tể Càn Khôn.” Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát” như thánh
nhân!
Lạy
Thiên Chúa là Đấng Hằng Sinh, (Xh 3:14; Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1
Sm 14:39 và 45; 1 Sm 17:26 và 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 và 21; 1 Sm 25:26 và 34;
1 Sm 26:10 và 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3;
Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Ga 8:24b; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1
Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25) con không biết xin Ngài điều gì, chỉ
xin Ngài là “tất cả của đời con.” Lạy Chúa các Chúa, xin giúp con luôn biết
khát Ơn Cứu Độ của Ngài, (Tv 119:174) biết can đảm bỏ chiếc-bình-tội-lỗi bên
giếng-đời, dám đốt chiếc-áo-tội-lỗi-quá-khứ để mặc chiếc-áo-tín-thác-mới-tinh, và
xin Thần Khí Ngài tác động để con biết mau mắn đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu
hiện thân nơi những con người bé nhỏ trên đường đời mà con gặp. Con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Ngoài Tám Mối Phúc “nòng cốt” (Mt 5:3-11;
Lc 6:20-23) còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập trong Kinh Thánh: Lc
7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22; Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv
112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn 3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc
28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11; Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.
✽ Khát! – https://tramthienthu.blogspot.com/2016/03/khat.html
✽ Suy Gẫm về Cơn Khát của Chúa Giêsu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment