Cuộc đời con người là một cuộc tìm kiếm không ngừng. Có nhiều thứ để tìm kiếm, chung quy lại chỉ là để mình cảm thấy hạnh phúc, thế nhưng có thể cả đời không tìm thấy, hoặc thấy loại này rồi lại tìm loại khác. Chắc hẳn các đạo sĩ cũng không ngoài mục đích đó, nhưng họ đã đạt được mục đích, và hạnh phúc của họ có thật, nhãn tiền: gặp được chính Đấng Cứu Thế.
Các chi tiết và
các điểm khác biệt từ câu chuyện về ba đạo sĩ được dựa vào Phúc Âm thứ nhất –
Tin Mừng theo Thánh sử Mátthêu. Qua đó, chúng ta thấy có mấy điểm chính như sau:
– Họ là những
người Ba Tư, đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại),
họ có một cuộc hành trình dài.
– Có hàng chục
đạo sĩ chứ không chỉ có ba người, và họ đã viếng thăm Hài Nhi Giêsu. Phúc Âm
theo Thánh Mátthêu không xác định số người, chỉ đề cập ba người tiến dâng lễ
vật cho Hài Nhi Giêsu.
– Ba đạo sĩ được
mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Nguyên Tổ Adam. Theo quy ước,
người ta đồng ý gọi tên của ba đạo sĩ là Balthasar, Gaspar và Melchior.
– Họ thuộc một
giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Họ đã chờ đợi rất lâu để có
thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một Thiên
Tử.
Như vậy, họ không phải là vua chúa hoặc quốc vương mà là các đạo sĩ,
các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ đến từ Đông phương xa lắc xa lơ,
miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến tận Belem để diện kiến chính
Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Lễ này ngày xưa gọi là lễ Ba Vua, ngày
nay gọi là lễ Hiển Linh.
Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, làm
người, ở giữa loài người, cùng chia sẻ mọi “nỗi đời” với thân phận phàm nhân của
chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên Chúa đã sử dụng để tỏ mình ra cho
muôn dân. Sự khiêm nhường tột cùng của Ngài dạy chúng ta phải cố gắng sống đơn
sơ và giản dị.
Ba đạo sĩ đã kiên nhẫn chờ đợi và miệt mài đi tìm Đấng họ mong đợi – và
họ gặp. Họ nhắc nhở chúng ta cũng phải kiên trì và nỗ lực vượt qua mọi gian khó
mới có thể gặp được Thiên Chúa. Ngài chính là cùng đích và hạnh phúc đích thực
đối với các Kitô hữu.
TÌM
THIÊN TỬ
Đi theo ánh sao để làm gì? Tất nhiên là để gặp được chính Thiên Tử. Từ
ngàn xưa, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và giờ đây lời hứa đó đã ứng nghiệm:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta.” (Ga 1:14)
Tất cả chúng ta là phàm nhân, ai cũng là tội nhân, nhưng “nô tì kiếp”
của chúng ta được chính Con Thiên Chúa đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, “vòng
kim cô” của ma quỷ, và được phục hồi quyền làm con cái của Thiên Chúa, vì thế
ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng
sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh
chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện
trên ngươi.” (Is 60:1-2)
Ôi, thật là diễm phúc biết bao! Tại sao? Bởi vì chúng ta không chỉ được
giải thoát khỏi bóng tối tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn
được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con
trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is 60:4). Và vì thế,
chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, mừng
như ngày hội và vui như tết.
Thật kỳ diệu, kỳ diệu tới mức nhiệm mầu, bởi vì Hài Nhi sinh ra nơi
hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là
Thái Tử của Thiên Hoàng, là Tân Vương Nhi. Ngài đến để giao hòa đất với trời,
đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo
hèn.” (Tv 72:6) Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ,
nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục
vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính
mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn,” (Lc 5:32) Ngài “đến để tìm và cứu
những gì đã mất,” (Lc 19:9) và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào”
(Ga 10:10). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời,” nhân loại không thể hiểu
hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta
thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư
tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không
phải là đường lối của Tôi.” (Is 55:8)
Vương Nhi thuộc vương tộc Đa-vít, nhưng Ngài là Hàn Vương. Tuy nhiên, triều
đại của Ngài lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế
nguyệt chẳng còn,” (Tv 72:7) để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn
dân nước thảy đều phụng sự.” (Tv 72:11) Vương Nhi Giêsu là Vua của các vua, là
Chúa của các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, luôn theo sát đồng bào, luôn tận tụy với đám dân nghèo, cương quyết bảo
vệ công lý và chân lý – vì theo Ngài, chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát
nhân loại. (x. Ga 8:32) Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành
động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh
lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” (Tv
72:12-13)
Từ Đông phương, các nhà hiền triết đã thấy Ánh Sao Lạ, họ biết ngay
rằng có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm
trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn
đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh. Điều kỳ lạ
là họ đã tin Trẻ Thơ Giêsu là Đấng họ mong đợi, không hề thắc mắc hoặc nghi
ngờ.
Nếu là chúng ta, chưa chắc chúng ta đã muốn bước chân vào, thậm chí có
thể kéo nhau quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi
đâu! Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu
có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô
Chú “nhìn thấy thương,” nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất
giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A.”
Còn các đạo sĩ kia, họ vẫn không hề thất vọng, họ liền bước vào triều yết Hàn
Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện hoàn
toàn có thật. Không chỉ tin và bái phục, họ còn dâng những lễ vật cao quý nhất
mà họ đã chuẩn bị và đem theo.
Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh
Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Giả sử chúng ta tận mắt chứng kiến thì chắc
gì chúng ta tin Em Bé Giêsu kia chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm
người. Như vậy là chúng ta may mắn lắm. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến
anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô.” (Ep 3:2-3) Thật
đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được
biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh
Tông đồ và ngôn sứ của Người.” (Ep 3:5) Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và
nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái,
cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6)
Và một lần nữa, chúng ta lại thực sự may mắn và hạnh phúc vì được “thừa
kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, được nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với
Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động” một
cách cụ thể chứ không nói suông.
THẤY
THÁNH TỬ
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, tôn danh Ngài là Giêsu Kitô.
Ngài là Thiên Vương, do đó Đức Maria trở thành Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là
Phụ Vương – mặc dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ,
Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang,” may còn có cái hang để chui vào. Không
người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng
không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông
là mừng lắm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé
thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Hạnh
phúc giản dị mà tuyệt vời. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim mang tên “hành
tình gian khổ” còn kéo dài nhiều tập…
Kinh Thánh cho biết thời đó đương triều của ác vương Hêrôđê. Ông được mấy
nhà chiêm tinh vào hỏi thăm xem Đức Vua của dân Do Thái mới sinh hiện ở nơi
nào. Họ còn cho biết rằng họ đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương
Đông, và họ muốn đến bái lạy Người. (Mt 2:1-2)
Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa tam tinh, choáng váng, và cả thành
Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi nên liền triệu
tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô
phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời chính xác là tại Bêlem, miền Giuđê, và họ dẫn
chứng sách ngôn sứ “nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra
đời.” (Mt 2:6) Vốn thâm độc, vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi
cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài
Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.”
(Mt 2:8) Loài quỷ sứ mà mang cánh thiên thần. Giả hình rất tinh vi!
Các đạo sĩ nghe nhà vua nói thế thì an tâm ra đi, vốn dĩ chân thật nên
họ không hề biết vua Hêrôđê “khẩu phật, tâm xà,” mưu mô và thâm độc, chỉ muốn
bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao
họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào
nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.” (Mt
2:11) Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.
Hang đá Belem lúc đó chắc là rộn rã lắm. Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò
chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê
nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị
nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh
“ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là
“làm lành, lánh dữ” – như thế vẫn là tiêu cực, mà còn phải tích cực hành động
để bảo vệ công lý cho tha nhân.
Thiên Tử Giêsu không có nghĩa là “con trời” như các ông vua ngày xưa tự
xưng hoặc những người mạo nhận (lập giáo phái này nọ…), mà Ngài là Thánh Tử của
Thiên Chúa Cha. Có điều chắc chắn rằng bất cứ ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ,
và bất cứ ai noi gương các đạo sĩ mà thành tâm tha thiết tìm Thiên Tử thì thấy
Thánh Tử.
Lạy Thiên Chúa
toàn năng và hằng hữu, xin giúp chúng con luôn thể hiện lòng thành qua cách
sống thường nhật, dù bình thường nhưng không tầm thường, không ngừng tìm kiếm
Ngài và can đảm hành động vì sự thật. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn
lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con sống đúng Tôn Ý Ngài trong
từng hơi thở. Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu
thay. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Emmanuel, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment