Một năm lại qua đi,
và một năm nữa lại khởi đầu. Khi vui Xuân và ăn Tết, chúng ta cùng nhau suy
nghĩ về lời nhắc nhở của Thiên Chúa với hình tượng Gà Mẹ và Gà Con: “Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu!” (Mt 23:37; Lc 13:34) Lời nhắc nhở “nhức nhối” lắm!
Tết đến, Xuân về, ai
cũng cảm thấy rạo rực khó tả. Người tha phương cầu thực cũng hối hả trở về quê.
Xuân là ngày đoàn tụ gia đình, mang hồn dân tộc và đầy tính thiêng liêng.
Trong niềm vui đó,
nhạc sĩ Văn Phụng [*] đã mô tả sự vui mừng của ngày đoàn tụ qua ca khúc “Xuân
Họp Mặt.” Ca khúc này được ông viết ở âm thể Đô Trưởng với nhịp 4/4, có thể đệm
đàn bằng điệu Cha Cha Cha, tiết tấu đơn giản nhưng không đơn điệu, dễ thuộc, có
chỗ đảo phách làm tăng thêm sự rộn rã của mùa Xuân.
NS Văn Phụng mô tả
những thứ rất tự nhiên: “Xuân đã về, Xuân vẫn mơ màng, trong nắng vàng,
khắp chốn tiếng reo vang. Xuân đã về, Xuân vẫn huy hoàng, trong gió
ngàn, mừng đón Xuân sang.” Đoạn này được lặp đi lặp lại như phần điệp khúc. Ca từ mộc mạc nhưng vẫn độc đáo với cách nhìn của một người có tâm hồn nghệ sĩ.
Hạnh ngộ mùa Xuân sau nhiều năm xa cách, người ta hàn huyên tâm sự
và nhắc lại thuở xưa: “Vui mùa xuân
năm nay gặp nhau, nhớ khi xưa, lúc ngây thơ, cầm tay hỏi nhau ngẩn ngơ: Đến bao
giờ đón Xuân mơ?” Ước mơ ngày ấy nay đã thành hiện thực.
Ngày Xuân gặp nhau, người ta nhớ lại giây phút quyến luyến khi
chia tay ngày nào: “Vui mùa xuân năm
nay gặp nhau, nhớ hôm nao, lúc ra đi, cầm tay hẹn nhau chờ nhau, đến bên cầu,
nắng xuân sau.” Niềm vui gặp nhau như được nhân đôi, vì được gặp nhau ngay
trong ngày đầu Xuân. Tuyệt vời biết bao!
Ngày Xuân đoàn tụ, niềm vui chan hòa quyện vào tình yêu thương kỳ
diệu: “Vui mùa Xuân năm nay gặp
nhau, hát vang câu mến thương nhau, cầm tay nhìn nhau ngẩn ngơ, ước mơ Xuân đến
bao lần.” Người ta muốn mùa Xuân sẽ trở lại nhiều lần như vậy để hạnh
phúc mãi thắm màu.
Câu kết (coda) ngắn gọn, giai điệu lên cao như niềm vui trào
dâng: “Mừng một ngày gặp nhau, cùng
mừng Xuân mới.” Nốt nhạc kết thúc lại ở nốt Mi chứ không kết ở nốt Đô,
nốt chủ âm, như thường lệ.
Xin tạ ơn Thiên Chúa đã cho chúng con một mùa Xuân yêu thương, để
mọi người có dịp tha thứ cho nhau, đến với nhau, và chúc nhau những điều tốt
đẹp nhất!
Lạy Chúa, chúng con khao khát
Ngài, vì chỉ có Nước Trời mới là nơi chúng con đoàn tụ để tận hưởng niềm vui
đích thực, và hợp lời ca tụng Ngài là Chúa Xuân vĩnh viễn. Amen.
TRẦM THIÊN
THU
[*] Nhạc sĩ Văn Phụng tên thật là Nguyễn
Văn Phụng, sinh năm 1930 tại
Hà Nội, mất năm 1999 tại Indonesia. Ông là con thứ hai trong một gia đình có 4 người
con. Ông học dương cầm (piano) từ
nhỏ với hai giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng. Năm 1945, ông đoạt giải nhất độc tấu
dương cầm trong một cuộc tuyển lựa tại Nhà
Hát lớn Hà Nội với nhạc phẩm “La Prière d’Une Vierge”.
Thời đi học, ông là một học sinh xuất sắc, học tiểu học tại trường Louis Pasteur, trung học tại trường
Albert Sarraut. Năm 16 tuổi, sau khi đậu Tú tài, ông theo học ngành Y theo ý muốn của cha ông. Nhưng chỉ
được một năm, ông bỏ học để theo âm nhạc. Ông nổi tiếng về nhạc tình, một số nhạc phẩm của ông được xếp vào thể loại tiền chiến. Ông còn được xem như một trong những nhạc sĩ hòa âm phối khí hay nhất tại Saigon trước 1975.
Năm 1946, trong một
lần chạy loạn về Nam Định, ông trú tại nhà thờ Tứ Trùng ở Chợ Cồn và gặp linh
mục Mai Xuân Đình, ông được linh mục này chỉ dạy về âm nhạc và giáo lý. Sau đó,
ông được nhạc trưởng Schmetzer (người Pháp gốc
Đức) chỉ dẫn về hòa âm. Năm 1948, Văn Phụng quay về Hà Nội. Theo
lệnh tổng động viên, ông gia nhập
Ban Quân Nhạc Đệ Tam Tiểu Đoàn Danh Dự. Ở đây, ông quen với những người mà về
sau cũng trở thành các nhạc sĩ nổi tiếng ở miền Nam như Nhật Bằng, Đan Thọ, Nguyễn Hiền, Văn
Khôi, Vũ Thành,...
Năm 1948, ông sáng tác ca khúc đầu tay “Ô Mê Ly” trong một lần vui đùa ca hát cùng bạn bè trong
Ban Quân Nhạc. Ông thường trình diễn nhạc phẩm này tại những vũ trường ở Hà
Nội. Bài hát đã được công chúng đón nhận, kể từ đó, tên tuổi Văn Phụng được
giới yêu nhạc chú ý. Về sau, “Ô Mê Ly” còn nổi tiếng với tiếng hát của Ban Thăng Long qua giọng ca Thái
Thanh và Phạm Đình Chương.
Năm 1954, ông di cư vào miền Nam, rồi làm Nhạc trưởng của Đài
Phát Thanh Quân Đội và phụ trách chương trình ca nhạc trên Đài Phát Thanh Saigon.
Ông khởi đầu cho sự nghiệp âm nhạc với “Ô Mê Ly” (1948) và kết thúc với “Chán Nản” (1972). Ông đã sáng tác hàng trăm ca khúc như
Ave Maria, Bức Họa Đồng Quê, Yêu, Mưa, Ghé Bến Saigon, Giã Từ Đêm Mưa, Giấc
Mộng Viễn Du, Lối Cũ, Mưa Trên Phím Ngà, Suối Tóc, Tiếng Dương Cầm, Tình, Tôi
Đi Giữa Hoàng Hôn, Trăng Sơn Cước, Xuân Miền Nam, Xuân Vui Ca,...
Ông được xem như là một trong số các nhạc sĩ theo trường phái nhạc cổ điển Tây Phương, nhưng ông
cũng viết những bản nhạc giá trị mang âm hưởng dân ca như Trăng Sáng Vườn Chè (phổ
thơ Nguyễn Bính), Các Anh Đi (phổ
thơ Hoàng Trung Thông), Đêm Buồn
(phổ lời ca dao), Nhớ Bến Đà
Giang,...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment