Đất trời vận hành, thời gian xoay vần, tháng ngày theo nhau qua dần,
và rồi lại hết năm. Năm hết đồng nghĩa với Tết đến, lòng người pha lẫn nhiều
cảm xúc khác nhau...
Năm 2017 cầm tinh con Gà, tên chữ là
con Kê, theo Can-Chi gọi là Đinh Dậu. Đinh Dậu là sự kết hợp thứ 34 trong hệ thống
đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can Đinh (hỏa
âm) và địa chi Dậu (Gà). Theo chu kỳ, Đinh Dậu xuất hiện sau Bính Thân và
trước Mậu Tuất.
Cũng như các loài khác, Gà cũng có Gà
trống và Gà mái. Nhưng về “dòng dõi” thì có nhiều loại Gà: Gà nòi, Gà tre, Gà
ác,…
Gà là một trong lục súc, tức là sáu
loại gia súc nuôi trong nhà, đó là: Ngựa (mã), Trâu/Bò (ngưu), Cừu/Dê
(dương), Chó (cẩu), Lợn (trư) và Gà (kê).
Có truyện cổ “Lục Súc Tranh Công”
(trước năm 1923), ngày nay được coi là ngụ ngôn, kể về sáu gia súc tranh giành
công lao: Trâu cho rằng mình làm ăn vất vả, có công sinh ra thóc, gạo, ngô, đậu
(đỗ); Chó cho rằng mình có công coi nhà, canh trộm; Ngựa cho rằng mình có
công đem chủ đi quán về quê, đánh đông dẹp bắc; Dê cho rằng mình có công
trong việc tế lễ; Gà cho rằng mình có công gáy sáng, báo giờ giấc; Lợn cho
rằng mình có công trong việc quan, ma chay, hôn lễ,...
Chẳng con nào vừa. Con nào cũng nhận
mình có công lao hơn các con khác, không con nào chịu con nào. Cuối cùng, người
chủ phải can thiệp vào, dàn hòa mới yên. Truyện này muốn nhắc nhở chúng ta phải
biết sống khiêm nhu, nhường nhịn nhau mà sống sao cho hòa thuận đúng đạo làm
người.
I. GÀ TRONG ĐỜI SỐNG
Gà là loài được nuôi để ăn thịt. Thịt Gà
thuộc nhóm thịt trắng với thành phần chủ yếu là protein, lipit, khoáng canxi,
phốt pho, sắt, albumin... Theo các chuyên gia dinh dưỡng, ngoài các chất
albumin và chất béo, thịt Gà còn có các vitamin như A, B1, B2, C, E, axit,
canxi, photpho, sắt,…
Hàm lượng protein và phức hợp của
amino acid có trong thịt Gà còn có tác dụng tích cực đến não bộ, tốt cho trẻ em
đang phát triển. Thịt Gà là thực phẩm chất lượng cao, cơ thể con người dễ hấp
thu và tiêu hoá.
Theo Đông Y, thịt Gà có tính ôn, vị
ngọt, không độc, bổ dưỡng, lành mạnh, tốt cho phổi và tim mạch, bổ âm cho tỳ
vị, bổ khí, bổ huyết, bổ thận, bổ mắt, hỗ trợ răng và xương. Thịt Gà chứa nhiều
protein, nhiều nạc, ít chất béo. Lượng protein trong thịt Gà có tác dụng giúp
bạn tăng trưởng và phát triển cơ bắp, duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh và
hỗ trợ giảm cân. Thịt Gà cũng rất giàu niacin – một loại vitamin B đặc biệt có
tác dụng chống ung thư và ngăn ngừa quá trình gây tổn hại cho DNA.
Có thuận thì có nghịch. Thịt Gà thơm
ngon và bổ dưỡng nhưng cũng có thể tác động xấu tới sức khỏe. Ăn quá nhiều thịt
Gà hoặc ăn thịt Gà kém vệ sinh sẽ đem lại những tác hại khôn lường. Ăn quá
nhiều thịt Gà gây khó tiêu. Nếu bảo quản thịt Gà kém vệ sinh sẽ nhiễm khuẩn và
gây ngộ độc cho người sử dụng.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, thịt Gà
kỵ với kinh giới, ăn chung hai thứ sẽ gây đầy bụng, khó tiêu; với người bị bệnh
thủy đậu, không nên ăn thịt Gà, đặc biệt là da Gà, vì có thể gây ngứa ở những
nốt thủy đậu và để lại sẹo sau khi khỏi bệnh; với người bị sỏi thận, nên
tránh xa hoặc kiêng ăn thịt Gà, vì đây là loại thực phẩm rất giàu protein, nó
sẽ khiến lượng oxalate trong nước tiểu tăng lên và hình thành các loại sỏi.
Tết nhất phải có chén rượu để “tâm sự ngày
Xuân”. Dân nhậu sành điệu thường ví von: “Đầu
Gà, má lợn”. Ý nói đầu Gà là ngon. Khi đã ngà ngà, họ còn chơi trò “quay
đầu Gà,” mỏ Gà xoay vô ai thì người đó phải “lì một lam” (làm một ly). Gà có
hai món đặc biệt mà người ta ưa thích: “Thứ
nhất phao câu, thứ nhì bầu cánh.” [Xin mở ngoặc: “bầu cánh” chứ không phải
là “đầu cánh” như một số người hiểu lầm. Phần “bầu cánh” là phần sát nách của
con Gà, vừa béo vừa ngon, chứ phần “đầu cánh” ngoài cùng chỉ có xương và da
thôi, chẳng có gì là ngon].
Cháo Gà thì khỏi nói, không ai xa lạ
gì, và là món khoái khẩu của nhiều người. Không chỉ vậy, Gà còn được người ta
chế biến nhiều món ngon. Nào là chiên, xào, luộc, hấp,... Đủ kiểu, đủ dạng. Thế
nhưng có một món “đặc biệt” mà không mấy ai đề cập, đó là món “gân Gà.” Ái chà!
Gân Gà không dễ xơi chút nào, nó mà dính vô răng thì khó xử lắm: lấy ra chẳng
được mà nuốt vào cũng không xong. Căng ghê đi! Có lẽ vì vậy mà chẳng ai ưa gân Gà
chăng? Rất có thể lắm đấy chứ! Kể ra con Gà không đơn giản như chúng ta tưởng,
thảo nào người ta nói “con Gà, con kê” nghĩa là chuyện dài dòng lắm thôi!
Trong cuốn “Thành ngữ Điển tích Danh
nhân Từ điển” (tác giả Trịnh Văn Thanh, 1965), có kể câu chuyện này…
Một
hôm, Tào Tháo đem đại quân đi tiếp viện Hạ Hầu Uyên, bị quân Thục của Lưu Bị
vây khốn. Đang buồn bực, bỗng có người bưng bát canh lên dâng. Tào Tháo nhìn
vào thấy miếng gân Gà. Vừa đúng lúc trời tối, Hạ Hầu Đôn bước vào xin Tào Tháo
ban cho mật khẩu để đi tuần tra ban đêm. Tào Tháo buột miệng nói hai
tiếng:
– Gân
Gà, gân Gà.
Hạ
Hầu Đôn liền lui ra khỏi trướng, truyền cho binh sĩ mật khẩu đêm nay là:
– Gân
Gà.
Bấy
giờ, Dương Tu đang làm chức Hành quân Chủ bạ, nghe Hạ Hầu Đôn truyền mật khẩu
như vậy, liền bảo binh sĩ chuẩn bị lui quân. Hạ Hầu Đôn lấy làm lạ, bèn hỏi
duyên cớ. Dương Tu đáp:
– Chúa
công đã cho mật khẩu là “gân Gà”, ta cứ suy ra thì biết. Vả lại, gân Gà không
có thịt mà lại dai. Không có mùi vị, nhưng bỏ đi thì lại tiếc. Hiện nay quân ta
thua mấy trận lớn, muốn tiến lên không được, rút về thì sợ quân Thục cười cho.
Ngụy Vương còn đang lưỡng lự, nhưng tôi biết nội trong nay mai, thế nào cũng có
lệnh. Vậy ta sửa soạn đi là vừa.
Tào
Tháo có lòng oán hận Dương Tu, đang đêm đi tuần tiễu, biết được Dương Tu ra
lệnh chuẩn bị rút quân, liền truyền trói Dương Tu lại và đem ra chém đầu vì tội
phá rối quân ngũ, làm loạn ba quân. Nhưng sau quả nhiên Tào Tháo thấy ở lâu ngày
không tiện, liền lui quân về Hứa Đô. Bấy giờ mới phục Dương Tu đã dùng mật khẩu
“gân Gà” mà biết trước mọi việc. Thế nhưng, hiểu được như vậy thì đã quá muộn!
Như đã nói, Gà là một con vật được
nuôi trong nhà, nên rất thân thương và gần gũi với con người. Vì thế, tục ngữ
ca dao nói rất nhiều về Gà, đôi khi hình ảnh của con Gà còn được sử dụng để ám
chỉ con người.
Gà được người ta quý mến vì nó hiền,
thân thiện, và gần gũi với con người. Theo “Hán Việt Tân Từ Điển” (tác giả
Nguyễn Quốc Hùng), Gà có năm “nhân đức” này: [1] Có ăn thì gọi nhau lại, đó là NHÂN;
[2] Có chí phấn đấu hăng hái, đó là DŨNG; [3] Đêm gáy đúng giờ, đó là TÍN; [4]
Chân có cựa, đó là VÕ; [5] Đầu có mào, đó là VĂN. Đó là năm đức tính cần có ở
người quân tử.
II. GÀ TRONG VĂN HÓA
Con Gà, đặc biệt là chú Gà trống, hiện
diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Đông phương và Tây phương. Là vật nuôi từ
được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, Gà gắn bó với cuộc sống con người,
nhất là trong tôn giáo và thần thoại. Từ thời cổ đại, Gà đã trở nên một linh
vật trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng
và tôn giáo – với tư cách là lễ vật, hiến vật.
Gà có vai trò quan trọng trong đời
sống thường nhật của con người, tiếng gáy của Gà trống là tiếng đồng hồ báo
thức cho con người ở những vùng quê êm ả. Trong văn hóa Đông phương, Gà là một
trong 12 con giáp với biểu tượng là Dậu và nằm
trong danh sách lục súc.
VĂN
HÓA HY LẠP
Sau khi tiếp cận văn hóa Ba Tư, người
Hy Lạp đã dùng thuật ngữ “chim Ba Tư” để chỉ con Gà trống – do tầm quan trọng
và công năng tôn giáo của con Gà trống trong xã hội Ba Tư. Tranh vẽ đầu tiên về
Gà ở Âu châu được tìm thấy trên món đồ gốm Korinthos, có niên đại từ thế
kỷ VII trước công nguyên. Người Hy Lạp cổ đại thường không dùng Gà để hiến tế,
có lẽ là vì nó được xem là vật ngoại lai. Nhờ tính dũng cảm, Gà trống được cho
là biểu tượng của thần Ares, Heracles và Athena. Người Hy Lạp cũng
tin rằng ngay cả sư tử, dù “có tiếng” là chúa tể sơn lâm, cũng còn nể sợ
chú Gà trống.
VĂN
HÓA LA MÃ
Về mặt tôn giáo, con Gà trống có ý
nghĩa quan trọng đối với người La Mã. Họ cho rằng Gà trống có mối liên kết với
thần Mercury – thông tín viên của các vị thần và là người chịu trách nhiệm đưa
các linh hồn người chết về thế giới bên kia. Người La Mã cổ đại dùng
hình tượng con Gà trong thuật bói chim để nhận lời tiên tri. Một
người – gọi là pullarius – sẽ chăm sóc Gà, khi nào cần bói thì ông ta mở
lồng và cho nó hạt đậu hoặc một loại bánh ngọt mềm đặc biệt. Nếu con Gà ở
nguyên trong lồng và gây ra tiếng động (đập cánh hoặc bay đi) thì đó là điềm
xấu, nếu con Gà ăn ngấu nghiến thì là điềm tốt.
Năm 249 trước công nguyên,
trước trận chiến Drepana, tướng Publius Claudius Pulcher của quân La
Mã đã sai người vứt “những con Gà thiêng” xuống biển vì chúng từ chối ăn. Năm
162 trước công nguyên, La Mã có luật Lex Faunia cấm vỗ béo Gà mái – có ý đảm
bảo lượng ngũ cốc tích trữ. Do đó, dân La Mã chuyển sang thiến Gà trống, kết
quả là kích cỡ Gà tăng gấp đôi, mặc cho luật La Mã quy định không được phép ăn Gà
đã vỗ béo, Gà bản địa La Mã hoặc Gà lai giữa Gà mái bản địa và Gà trống Hy Lạp
lại được ưa chuộng hơn trong nghề chăn nuôi.
VĂN
HÓA DO THÁI
Vào một buổi chiều trước ngày Yom
Kippur (ngày sám hối của người Do Thái), theo nghi thức kapparos, động vật
thường dùng là Gà hoặc Cá – vì có sẵn và có kích cỡ vừa tay cầm. Nghi lễ hiến
tế này mang ý nghĩa là con vật đó sẽ mang đi mọi tội lỗi của người cử hành nghi
lễ. Sách Talmud của Do Thái giáo có đề cập việc học hỏi “tính lịch thiệp
đối với bạn đời” từ con Gà trống. Khi tìm thấy thứ gì ăn được, Gà trống sẽ gọi Gà
mái đến ăn trước.
Sách Talmud viết: “Giả sử nếu chúng ta không có kinh Torah, chúng ta sẽ có sự nhu mì
từ mèo, sự cần cù lao động lương thiện từ kiến, sự trinh bạch từ bồ câu, và sự
lịch thiệp từ Gà trống.” (Jonathan ben Nappaha, Talmud: Erubin 100b)
VĂN
HÓA Á CHÂU
Tại Á châu, Gà mang ý nghĩa hết sức
quan trọng trong nghi lễ hỏa táng của đạo Hindu ở Indonesia. Tại quốc
gia này, Gà được xem là đường nối cho các linh hồn xấu xa. Trong buổi lễ, Gà
bị thắt chân để bảo đảm rằng mọi linh hồn xấu xuất hiện trong buổi lễ sẽ nhập
vào Gà thay vì nhập vào các thành viên trong gia đình tại đó. Sau lễ, người ta
mang Gà về nhà và nó lại được tiếp tục sống bình thường.
Cũng ở Indonesia, người ta thường giết
Gà Ayam Cemani để cúng tổ tiên và thần thánh trong lúc thai phụ lâm bồn, vì họ
tin rằng may mắn sẽ tới. Gà Ayam Cemani còn được hiến tế vào một số dịp đặc
biệt khác, tiếng gáy của Gà Ayam Cemani được coi là đem lại sự thịnh vượng.
Tại Nhật Bản, Gà được xem là linh vật,
hình ảnh của Gà gắn liền với những câu chuyện thần thoại. Một trong số những
câu chuyện thần thoại kể rằng Nữ Thần Mặt Trời Amaterasu tức giận với hành động
ngang ngược của người em trai là Thần Bão Tố Susano nên đã lánh vào hang động,
lấp kín cửa hang, khiến dương gian chìm trong tăm tối. Trước tình cảnh đó, các
vị thần bèn tìm cách để Nữ Thần Mặt Trời rời khỏi hang động, mang ánh sáng ấm
áp cho trần thế. Họ dùng những con Gà trống thật khỏe mạnh để thi nhau gáy mà
mời gọi Nữ Thần Mặt Trời.
VĂN
HÓA HUYỀN SỬ
Gà có dấu tích của văn minh và văn hóa
nông nghiệp ở Việt Nam. Trên trống đồng Đông Sơn, Gà và Chim là những loài được
thể hiện khá nhiều, có một loài chim nước được gọi là “Gà nước.”
Có truyền thuyết về vua An Dương Vương
Thục Phán cố công xây thành nhưng đắp đến đâu thì đất lở đến đấy, Thần Kim Quy
báo cho nhà vua biết ở núi Thất Diệu có một con Gà trắng sống ngàn
năm rồi hóa thành yêu tinh ẩn trong núi, nếu diệt được nó thì việc xây thành sẽ
thành công. Sau khi An Dương Vương giết được con Gà trắng thì xây được thành.
Trước đó, trong truyền thuyết Sơn Tinh
– Thủy Tinh, Gà cũng được nhắc đến là một trong ba lễ vật thách cưới của Vua
Hùng khi gả con gái là Mỵ Nương, đó là “voi chín ngà, Gà chín cựa, Ngựa chín
hồng mao.”
VĂN
HÓA VÕ THUẬT
Thời Tây Sơn, tương truyền rằng
Nguyễn Lữ là người đã sáng tạo ra môn Hùng Kê Quyền. Đây là bài quyền mô
phỏng các kỹ thuật của Gà chọi, một trong mười bài võ được Liên đoàn Võ thuật
Cổ truyền Việt Nam lựa chọn để biểu diễn trong các kỳ hội nghị chuyên môn toàn quốc.
Đặc trưng của bài quyền này là những
động tác dũng mãnh của Gà chọi, nhỏ bé mà nhanh nhạy trước đối thủ, bài Hùng Kê
Quyền sử dụng ngón tay trỏ để đâm mô phỏng hình mỏ Gà, và các ngón còn lại co
vào như chiếc cựa Gà. Thủ pháp độc đáo như vậy lại nhằm vào những điểm nguy
hiểm của đối thủ – như các huyệt đạo, ngực, hầu,... Bộ pháp của bài rất linh
hoạt, thần tốc, xoay chuyển biến ảo, hỗ trợ cho việc thi thủ pháp một cách kiến
hiệu, khiến đối thủ luôn phải hứng chịu những đòn thế có tính sát thương.
VĂN
HÓA NGHỆ THUẬT
Trong văn hoá Việt Nam, đặc biệt với
nét tranh Làng Hồ là hình ảnh chú lợn ủn ỉn hoặc con Gà cục tác lá chanh. Đó là
những nét chấm phá về một làng quê Việt Nam an bình, với các triết lý sống mang
tính nhân bản tự nhiên. Hình ảnh con Gà còn có một vị trí quan trọng trong tục
lệ thờ Mẫu, Thánh, Ngũ Phủ công đồng. Biểu tượng con Gà được đứng ở vị trí
trang trọng trước điện thờ tiên thánh.
Đuôi Gà trống có lông dài vào vồng
lên, đó là đặc điểm của Gà trống. Trong văn hóa Việt Nam, cách trang phục
phụ nữ miền Bắc ngày xưa khi vấn khăn thường để chừa ra một
đoạn tóc đầu cùng được bỏ buông lơi, gọi là “tóc đuôi Gà”. Kiểu tóc
này là một nét đẹp được nhiều người ưa thích. Thành ngữ “Gà mái
gáy” thường dùng với tính chỉ trích, ý nói rằng người đàn bà tiếm dụng
hoặc làm phần việc của đàn ông.
Ngược lại, người đàn
ông góa vợ phải chăm lo cho con thì Việt ngữ gọi là “Gà trống
nuôi con”. Gà trống cũng xuất hiện trong những câu đố dân gian, vì nó có “tướng
mạo quân tử”.
Trong bài thơ “Nắng Mới,” thi sĩ Lưu
Trọng Lư có đề cập tiếng Gà:
Mỗi
lần nắng mới hắt lên song
Xao
xác Gà trưa gáy não nùng
Lòng
rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập
chờn sống lại những ngày không
Thi sĩ Chế Lan Viên cũng đã từng viết
về cái tâm trạng nhớ quê da diết khi nghe tiếng Gà gáy:
Ôi lý
do gì vậy?
Một
tiếng Gà trưa gáy
Làm
ta vượt thời gian
Trở
về lại Tam Quan
Nghe
tiếng Gà trưa ấy
Ba
mươi năm rồi đấy!
Tiếng Gà gáy trong thơ Việt Nam khác
hẳn với tiếng Cuốc, tiếng Oanh hoặc tiếng Nhạn trong thơ Đường. Sau này, theo
kiểu tiếng lóng, người ta dùng con Gà để chỉ những cô gái mại dâm: Gà móng đỏ.
VĂN
HÓA THỂ THAO
Gà Hồ là linh vật tại Đại hội Thể thao
Á châu Trong nhà 2009. Gà là một giống vật nuôi gần gũi và thân thiết với người
Việt. Theo quan niệm dân gian, Gà mang đủ năm đức tính của người quân tử: Văn –
Võ – Dũng – Nhân – Tín. Đặc biệt hơn, Gà Hồ là một giống Gà quý ở Bắc Việt,
là giống Gà Việt thuần chủng.
Biểu tượng vui được thiết kế với hình
ảnh chú Gà Hồ đang vươn mình đón nắng mặt trời ví như Thể thao Việt Nam hân
hoan đón chào AIGs III. Chú Gà mặc bộ trang phục thể thao khoẻ mạnh, với tay
trái dang rộng đón chào bè bạn quốc tế, tay phải hình chữ V thể hiện niềm tin
chiến thắng, giữa áo là biểu tượng mặt trời đỏ OCA nằm sát cổ áo tạo thành
hình tượng chiếc huy chương danh giá nhất của kỳ Đại hội năm đó.
III. GÀ TRONG NGỤ NGÔN
Tương tự các loài khác, Gà cũng có
những truyện ngụ ngôn liên quan, mang tính răn đời. Đây là hai trong số nhiều
ngụ ngôn liên quan con Gà.
1.
NGỤ NGÔN “HAI CON GÀ TRỐNG”
Có hai con Gà cùng một Gà mẹ sinh ra
và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, đủ lông đủ cánh, chúng trở thành hai con Gà trống,
nhưng chúng lại hay cãi nhau. Con nào cũng tự nhận mình đẹp hơn, oai hơn, có
quyền làm Vua Nông Trại.
Một hôm, sau khi cãi nhau một hồi,
chúng đánh nhau kịch liệt, chúng quy ước rằng hễ con nào thắng sẽ được làm Vua
Nông Trại. Dĩ nhiên rồi cũng có một con thắng và một con bại.
Con Gà thắng trận vội nhảy lên hàng
rào, vỗ cánh và cất tiếng gáy vang, khoe khoang sự chiến thắng của mình. Nào
ngờ tiếng gáy của nó làm một con chim ưng chú ý khí đang bay ngang qua đấy. Thế
là con chim ưng sà xuống tóm lấy ngay con Gà thắng trận mang đi mất. Trong khi
đó, con Gà bại trận vẫn còn nằm thoi thóp thở vì bị thương trong trận tranh
hùng vừa qua. Cuối cùng, cả hai con Gà đều thua thiệt, chẳng con nào có lợi!
Câu chuyện muốn khuyên chúng ta phải
yêu thương nhau, đùm bọc nhau, nhất là đối với các anh chị em trong nhà, đừng
để người ngoài hiếp đáp. Không yêu thương người trong nhà thì đừng khoe mẽ mình
là người biết yêu thương người khác. Do đó, ca dao có câu: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài – Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
2.
NGỤ NGÔN “GÀ và ĐẠI BÀNG”
Ngày xưa, có một ngọn núi cao và lớn,
bên sườn núi có một tổ chim Đại Bàng. Trong tổ có bốn quả trứng lớn. Bất ngờ
một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng Đại Bàng lăn
xuống và rơi vào một trại Gà dưới chân núi. Một con Gà mái ấp trứng nó đẻ ra,
và tất nhiên cũng ấp cả quả trứng lớn kia.
Một ngày kia, trứng lớn nở ra một chú Đại
Bàng con xinh đẹp, nhưng chú chim nhỏ này được nuôi lớn như một con Gà. Chẳng
bao lâu sau, chú Đại Bàng vẫn tin rằng nó là một con Gà. Nó yêu quý gia đình và
ngôi nhà nó đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa
hơn.
Cho đến một ngày nọ, trong khi đang
chơi đùa trong sân, nó nhìn lên trời và thấy những con chim Đại Bàng đang soải
cánh bay cao giữa bầu trời. Nó chợt kêu lên: “Ôi, ước gì mình có thể bay như những con chim kia.” Bầy Gà em cười
ầm lên: “Cục tác, cục tác, ha ha… Anh
không thể bay với những con chim đó được. Anh chỉ là một con Gà, và Gà không
biết bay đâu!”
Đại Bàng “Gà” vẫn tiếp tục ngước nhìn
gia đình thật của nó, và khao khát có thể bay cao cùng đàn chim kia. Mỗi lần Đại
Bàng nói ra mơ ước của mình, bầy Gà lại bảo đó là điều viễn vông, ảo tưởng,
không thể hiện thực. Và rồi Đại Bàng cũng phải tin đó là sự thật. Từ đó, nó
không dám mơ ước nữa, cứ tiếp tục sống như một con Gà. Cuối cùng, sau một thời
gian dài sống làm Gà, Đại Bàng cũng… chết.
Trong cuộc sống cũng vậy, nếu bạn tin
rằng bạn là một người tầm thường, bạn sẽ sống một cuộc sống tầm thường và vô
vị, đúng như những gì mình đã tin tưởng. Như vậy, nếu bạn đã từng mơ ước trở
thành Đại Bàng, bạn hãy đeo đuổi ước mơ đó, và đừng sống như một con Gà!
Cuộc sống luôn cần phấn đấu, phải cố
gắng vượt qua chính mình. Hãy mau chóng nắm bắt ước mơ, nếu để cho ước mơ lụi
tàn thì cuộc sống cũng giống như một con chim gãy cánh, không thể bay được nữa!
Đại văn hào Shakespeare nói: “Bản chất
của tham vọng chẳng qua là chiếc bóng của ước mơ.” Nếu muốn có một thứ mà
bạn chưa bao giờ có, bạn phải làm những thứ mà bạn chưa bao giờ làm.
Trong sách Châm Ngôn, phần “châm ngôn
có số” (phần VII) có đề cập nhiều loại động vật, trong đó có câu nói tới con Gà:
“Gà trống nghênh ngang hay dê đực, và ông
vua điều khiển quân binh.” (Cn 30:31) Còn sách ông Gióp đặt vấn đề: “Ai làm cho cò lửa khôn ngoan, ai ban trí
tuệ cho Gà trống?” (G 38:36) Đó là dạng câu nghi-vấn-xác-định, tuy là câu
hỏi nhưng lại là cách khẳng định, loại ngữ pháp này ngụ ý làm nổi bật vấn đề.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã
tiên đoán sự phản bội của Thánh Phêrô: “Thầy
bảo thật anh, nội đêm nay, Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt
26:34; Mc 14:30; Lc 22:34) Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm, ông Phêrô đã bật
khóc thảm thiết. (Mt 26:75; Mc Mc 14:72; Lc 22:61) Thánh Gioan cũng nói tới
việc ông Phêrô chối Thầy, nhưng mô tả cách hơi khác. (Ga 18:15-18, 25-27)
Từ “sự cố” ông Phêrô chối Thầy, con Gà
trống được coi là biểu tượng của sự cảnh giác và sự phản bội.
Trong các Phúc Âm nhất lãm (Mátthêu,
Máccô và Luca) đều đề cập chuyện con Gà trống đóng vai trò như là “lời nhắc
nhở” của Chúa Giêsu. Thế kỷ VI, ĐGH Grêgôriô I tuyên bố rằng Gà trống
là biểu tượng của Kitô giáo. Thế kỷ IX, ĐGH Nicôla I ra lệnh đặt hình tượng con
Gà trống lên tất cả các gác chuông nhà thờ. Có thể điều đó có ý nhắc nhở mọi
người phải tỉnh thức.
Khi nói về Giêrusalem, Chúa Giêsu đã
dùng hình tượng Gà mẹ và đàn Gà con: “Hỡi
Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ chịu
sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như Gà mái túc
con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng hứng.” (Mt 23:37; Lc 13:34)
Con Gà là hình tượng của quân tử, cần
có năm nhân đức này: Văn – Võ – Dũng – Nhân – Tín. Theo quan niệm Nho giáo,
quân tử là mẫu người lý tưởng mà ai cũng phải cố gắng sống theo. Quân tử đối
nghịch với tiểu nhân. Cách làm việc của quân tử có “ba không”:
1. “Quân tử bất vọng động, động tất
hữu đạo.” Quân tử không hành động mù quáng hoặc làm bừa, mà làm gì cũng đều
có đạo lý. Quân tử luôn nghiêm khắc với chính mình, còn tiểu nhân luôn khó khăn
và xét nét người khác.
2. “Quân tử bất cẩu cầu, cầu tất hữu
nghĩa.” Quân tử không mưu cầu tùy tiện, mưu cầu điều gì cũng đều nghĩa. Quân tử
biết biết rõ về điều nghĩa, còn tiểu nhân hiểu rõ về cái lợi.
3. “Quân tử bất hư hành, hành tất hữu
chính.” Mọi động thái của quân tử đều không tùy tiện, làm gì cũng đặt mình
vào hoàn cảnh người khác để cân nhắc: Có chính đáng? Có bất lợi cho người
khác? Có xúc phạm người khác? Quân tử sợ sai, tiểu nhân làm càn!
Với vài thiển ý vừa nêu, có thể nói
rằng con Gà cũng là hình tượng của Kitô hữu chúng ta. Con Gà nhắc chúng ta nhớ
đến những điều nghiêm túc, nghĩa là sống theo Thánh Luật của Thiên Chúa đã
truyền dạy. Kinh Thánh đã nói: “Hạnh phúc
thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay
kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. Họ không làm điều ác,
nhưng cứ đường lối Chúa mà đi.” (Tv 119:1-3)
Được như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ
đại lượng chúc phúc cho chúng ta, không chỉ trong dịp Tết này, mùa Xuân này,
hoặc năm nay, mà suốt cả cuộc đời của chúng ta. Năm mới, người mới, tâm linh
cũng phải mới: Chúc
Mừng Năm Mới và Người Mới – Happy New Year and Holy
New You. Hãy hiện thực hóa lời chúc đầu năm này!
TRẦM THIÊN THU
[Đăng báo ĐMHCG tháng 1-2017, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]
No comments:
Post a Comment
Comment