Xa hay gần là đề cập khoảng cách, có thể là về thời gian hoặc không gian. Tuy nhiên, khoảng cách chỉ là một khái niệm theo ý nghĩ của phàm nhân. Đối với Thiên Chúa không có khoảng cách, vì đối với Ngài luôn luôn là hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai.
Với con người,
khoảng cách xa hoặc gần cũng chỉ là tương đối, tùy theo cách nghĩ của mỗi người
khác nhau. Ví dụ: về thời gian, 5 năm có thể là xa (lâu) đối với người này, nhưng
10 năm có thể là gần (mau) đối với người khác; về không gian, 5 km có thể là xa
đối với người này, nhưng 10 km có thể là gần đối với người khác. Các khái niệm
hoàn toàn khác nhau.
Ngoài ra, cũng có
nhiều loại khoảng cách khác mà mọi người đều phải nỗ lực rút ngắn: khoảng cách
về vật chất, khoảng cách về tinh thần, khoảng cách về tình cảm, khoảng cách về
kiến thức, khoảng cách về nhận thức, khoảng cách về yêu thương, khoảng cách về
giáo dục, khoảng cách về trình độ, khoảng cách về tuổi tác,…
Để cho loài người
dễ hiểu, Chúa Giêsu đã xác định: “Anh em
hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4:17) Tương tự, Phúc Âm theo
Thánh Mác-cô cho biết: “Thời kỳ đã mãn và
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc
1:15) Như vậy, Thuyết Thế Mạt (Eschatology) đang ở thì tiếp diễn, đang diễn
tiến, nghĩa là chúng ta thực sự đang sống trong Thời Cánh Chung, đang ở trong
“khoảng thời gian” mà chính Chúa Giêsu đã đề cập.
Nước Trời đã đến
gần, ai muốn đến gần Nước Trời thì phải sám hối và tin vào Tin Mừng – tức là
tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng nhập thể và nhập thế. Người đã được rửa tội là
người được tham dự vào Nước Trời, nhưng còn ở thế gian nên còn phải sám hối,
sám hối không ngừng, sám hối suốt đời. Đấng Thiên Sai đến thế gian để các tội
nhân chúng ta được ơn giải thoát: “Dân
đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong
vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Is 9:1)
Đối với thế gian,
được ra khỏi nhà tù là niềm hạnh phúc, được trắng án còn hạnh phúc hơn. Thế thì
không thể diễn tả nổi niềm hạnh phúc của những người được giải thoát khỏi ách
nô lệ tội lỗi. Họ là ai? Là dân Israel, và cũng là chính chúng ta. Ngôn sứ
Isaia cho biết: “Chúa đã ban chứa chan
niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên
hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.” (Is
9:2)
Tại sao người ta
lại vui mừng hoan hỷ như vậy? Cách họ thoát thân kỳ diệu do chính Thiên Chúa
hành động: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây
gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong
ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo
choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.” (Is 9:3-4) Công lý đã
được đòi lại, sự thật đã tỏ tường.
Giữa con người
với nhau cũng có những “khoảng cách” khác nhau – cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Nói về
đời thường, Kinh Thánh nhận định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán
than.” (Cn 29:2) Hôn
quân dân khổ, minh quân dân nhờ. Nói về đạo giáo, Kinh Thánh nhận định: “Sứ giả gian
manh chỉ gây nên tai họa, sứ giả
trung tín là phương thuốc chữa lành.” (Cn 13:17) Và còn hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã nói rất rõ
ràng: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ
giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.”
(Mt 7:15) Những câu nói
xoáy vào óc khiến “nhức buốt” quá chừng! Thế nhưng, đúng như ông bà ta vẫn nói:
“Nói gần, nói xa, chẳng qua nói thật.”
Và Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Sự thật
sẽ giải thoát quý vị.” (Ga 8:32)
Sự thật đó chính
là Thiên Chúa, Ngài cũng chính là Ánh Sáng và Ơn Cứu Độ. Có Chúa là có tất cả,
mất Chúa là mất tất cả. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ cảm nghiệm: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của
tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai
nữa?” (Tv 27:1)
Vô tri bất mộ. Biết
rồi thì không thể không yêu mến. Vì yêu mến mà người ta khao khát không ngừng: “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở
trong đền Chúa tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời
cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.” (Tv 27:4) Ước mong đó không phải
là ảo vọng, mơ hồ hoặc tự đánh lừa mình, mà là sự thật minh nhiên và chắc chắn:
“Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân
lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo
lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 27:13-14)
Tin thì phải thể
hiện niềm tin bằng hành động, chứ không thể nói suông. Thánh Phaolô dẫn chứng
cụ thể: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời
ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận,
một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi
hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.” (1 Cr 1:10-11) Có lẽ tình trạng đó
cũng đã và đang xảy ra thường xuyên tại các cộng đoàn và hội đoàn ngày nay. Bề
ngoài nhìn có vẻ “tâm đầu ý hợp,” nhưng bên trong là những “khoảng cách” sâu
thẳm, với những “lời xì xầm” kèm theo những cái liếc mắt sắc bén hơn lưỡi lam!
Cộng đoàn Côrintô
thời Thánh Phaolô đã có những luận điệu so kè, bè phái. Thánh Phaolô dẫn chứng:
“Tôi muốn nói là trong anh em có những
luận điệu như: Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về
ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?
Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã
chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?” (1 Cr 1:12-13) Ngày nay cũng có dạng
tương tự, như người Việt có cách nói: “Thấy sang bắt quàng làm họ,” hoặc “Cáo
mượn oai hổ.”
Cuối cùng, ông
Phaolô xác định: “Đức Kitô đã chẳng sai
tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không
phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.” (1
Cr 1:17) Nhiệm vụ làm nhân chứng của Tin Mừng và Đức Kitô không của riêng ai.
Bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (Phép Rửa) đều được Thiên Chúa trao ba
thiên chức: Vương giả (Vương đế), Tư tế và Tiên tri (Ngôn sứ).
[Xin mở ngoặc: Để dễ nhớ, chúng ta có thể thay
danh từ Vương Đế là Thiên Tử, vì vua chúa xưa được coi là Thiên Tử. Như vậy
chúng ta có 6 T để mô tả ba thiên chức: Thiên Tử, Tư Tế và Tiên Tri.]
Trình thuật Mt
4:12-23 cho biết rằng khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh
qua miền Galilê. Sau đó Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển
hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia
nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali,
hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của
dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy
hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi.” Giữa bóng tối và ánh sáng có một “khoảng cách bí ẩn,” một
“ranh giới” đặc biệt, người ta không thể “thấy” được nếu không có niềm tin vào
Đức Giêsu Kitô.
Thánh Mátthêu cho
biết thêm rằng từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”
Sau khi chịu Phép Rửa, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu công khai bằng một lời cảnh
báo ngắn gọn mà thâm thúy, xác định với chúng ta rằng “khoảng cách” giữa Nước
Trời và chúng ta đã gần rồi, nghĩa là không còn xa nữa.
Hôm đó, khi đang
đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy hai anh em kia là ông Simôn – cũng
gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông
làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các
anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.”
Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài.
Đi một quãng nữa,
Ngài thấy hai anh em khác là Giacôbê và Gioan – hai người con của ông Dêbêđê. Họ
đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền, và Ngài gọi các ông.
Lập tức, các ông bỏ thuyền và người cha lại mà theo Ngài.
Đó là bốn môn đệ
đầu tiên của Chúa Giêsu. Họ có điểm chung: Mau mắn và dứt khoát. Đó là động
thái tích cực mà chúng ta cần áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Họ là những
người đầu tiên cộng tác với Chúa Giêsu trong việc rút ngắn “khoảng cách” giữa
nhân loại với Nước Trời. Những người càng cố gắng hoàn thiện để nên giống Đức
Kitô thì càng đến gần Nước Trời hơn. Nước Trời đã đến gần, Chúa Giêsu đã tích
cực rút ngắn khoảng cách cho chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phải chủ động rút
ngắn khoảng cách đó để càng gần Nước Trời hơn nữa.
Cuối cùng, Thánh
Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đi khắp miền
Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa
hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Chúa Giêsu nhập thể và nhập
thế, sống bình thường như chúng ta – trừ tội lỗi. Ngài không muốn có khoảng
cách nào giữa Ngài và chúng ta. Còn chúng ta đối với Ngài và tha nhân thế nào?
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con
biết xác định khoảng cách nội tâm để khả dĩ nhận biết Ngài và nhận biết chính
con. Xin giúp con mau mắn và dứt khoát vững bước đến với Ngài và đến với tha
nhân bằng cả con người của con. Xin cho mọi khoảng cách đều được rút ngắn để
mọi người gần gũi nhau hơn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân
loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment