Núi Tabor mệnh danh là Núi Biến Hình – cũng được gọi là Har Tavor, Itabyrium, Jebel et-Tur. Núi Tabor tọa lạc tại miệt dưới Galilê, Israel, thuộc phía Đông Thung lũng Jezreel, cách Biển Galilê 11 dặm (18 km) về phía Tây.
Núi Tabor là nơi Chúa Giêsu đã biến hình sáng
láng trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín nhất: Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Như chúng ta đã biết, sau khi Chúa Giêsu tiên
báo cuộc thương khó lần thứ nhất, (Mt 16:21-23; Mc 8:3 -33; Lc 9:22) và cũng là
lần ông Phêrô bị nguyền rủa “nặng nề” là Satan, Ngài đã cho ba môn đệ thân tín đi
theo lên núi Tabor và cho họ được “nếm thử” niềm hạnh phúc đích thực của Nước
Trời qua sự kiện Ngài biến hình khi đàm đạo với hai ông Êlia và Môsê. Ngài cho các
môn đệ nhãn tiền thấy vinh quang của Ngài như vậy nhằm củng cố đức tin cho họ.
Đã có một số người được thị kiến về những
điều khác nhau: Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị kiến Hỏa ngục, Thánh
Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu với ngọn
lửa và vòng gai quấn quanh, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được
thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) được thị kiến Hỏa Ngục
và các thị kiến khác, đồng thời nhận sứ vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa, và còn nhiều thị nhân khác...
Thời Cựu Ước cũng đã từng có một số người
được thị kiến và đối thoại với Thiên Chúa, trong số đó có cậu bé ngôn sứ
Đanien.
Ngôn sứ Đanien đã kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai
và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng
như tuyết, tóc trên đầu Người tựa
lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn
là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng
rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông
lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh
Nhan. Tòa bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.”
(Ðn 7:9-10) Thị kiến đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân
biệt chiên với dê, tách rời cỏ lùng khỏi lúa. Đó chính là Giờ Công Lý, bởi vì
Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc vị Thẩm Phán chí công của Tòa Thượng Thẩm nghiêm
xét mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời đời.
Và rồi ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn
thì kìa: có ai như một Con Người đang
ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn
đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và
vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng
sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền
vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” (Ðn 7:13-14)
Những lời mô tả rất rõ ràng, rạch ròi, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ
lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không phải là chuyện vui đùa hoặc hù dọa, cũng
chẳng là huyền thoại hoặc cổ tích, lại càng không phải là ngụ ngôn.
Thật vậy, từ rất xa xưa, tác giả Thánh Vịnh
đã động viên và tiên báo: “Chúa là Vua
hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u
ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như
sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là
Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người.” (Tv 97:1-2, 5-6) Chắc
chắn rằng phàm nhân không thể nào chịu nổi nếu nhìn thấy vinh quang của Thiên
Chúa bằng mắt thường.
Mọi loài và mọi vật đều phải tâm phục khẩu
phục. Tại sao? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư
thần hết thảy.” (Tv 97:9) Vâng, chỉ có Ngài là Thiên Chúa, một Thiên Chúa
Ba Ngôi duy nhất.
Thánh Phêrô đã “thực mục sở thị” chính Thầy
Giêsu và đầy kinh nghiệm nhờ những tháng năm theo Ngài rong ruổi khắp hang cùng
ngõ ngách, và ông hiên ngang làm chứng: “Khi
chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện
hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt
của Người.” (2 Pr 1:16) Tuyệt vời lắm! Và rồi Giáo hoàng tiên khởi cho biết
thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa
là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển
phán với Người: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến’.” (2 Pr
1:17-18)
Để kết luận, Thánh Phêrô nói: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm,
cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em.” (2
Pr 1:19) Người việt có câu: “Bảy mươi còn
phải học bảy mốt.” Chúng ta chỉ là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám dại
đột mà làm ngơ những lời chứng đó.
Tin nhận và tín thác là điều không dễ thực
hiện trong một sớm một chiều, chắc chắn khó lắm, thế nên Chúa Giêsu mới khuyến
khích: “Phúc thay những người không thấy
mà tin!” (Ga 20:29) Tin và ảo tưởng rất dễ lẫn lộn với nhau, thế nên phải
có được khả năng minh định rạch ròi. Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà
đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán tín bán nghi. Thực sự khó lắm! Tuy
nhiên, đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ dễ trở thành cuồng tín, mà cuồng
tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có đức tin chân chính mới hoàn toàn không
sai lầm.” Đức tin rất quan trọng, nhưng phải là Đức Tin Chân Chính.
Chúng ta không có diễm phúc được thị kiến như
các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách thị kiến khác – Chẳng hạn chúng ta
chiêm ngưỡng thiên nhiên hoặc nhìn vào các biến cố của cuộc đời, cả điều tốt và
điều xấu. Xin tạm gọi đó là “tín kiến” (thị kiến bằng đức tin). Quả thật, đa số
các thánh cũng chỉ “thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy mà thôi.
Chỉ mới một tuần lễ trước, Chúa Giêsu nói
rằng Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt
16:21) Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Tại sao
vậy?
Bao năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ
với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật,” kiên quyết một lòng
một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến
lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao là
chức tước và bổng lộc. Chính hai người con của ông Dêbêđê (Giacôbê và Gioan) đã
từng hí hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai
anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy,
khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10:37) [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin
dùm.] Thế mà ngờ đâu Thầy lại sắp đi chịu chết. Ôi thôi, thế là hết! Lâu đài kỳ
vọng chợt sụp đổ như bị động đất với cường độ mạnh, mộng vàng tương lai chợt
tan thành mây khói. Thế là công dã tràng. Trắng tay. Chẳng còn hy vọng chi nữa!
Lúc đó, Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “ấm
ức” và hầu như tuyệt vọng, thế nên sau đó, Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi,
cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu
đựng của con người có giới hạn, mà các môn đệ cũng là những con người, là phàm
phu tục tử. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên
Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui không lời từ biệt, bỏ của chạy lấy người.
Qua trình thuật Lc 9:28b-36 (≈ Mt 17:1-8; Mc
9:1-9), chúng ta được biết Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trên Núi Tabor trước
mặt ba môn đệ thân tín nhất. Trước khi cho họ nếm thử vị ngọt ngào của niềm hạnh
phúc đích thực, Đức Giêsu đã nói với họ: “Tôi
bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy
Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.” Phải chăng Ngài ám chỉ Chàng trai trẻ
Gioan?
Một tuần sau, Ngài đem các ông Phêrô, Giacôbê
và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt
các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian
giặt trắng được như vậy. Và rồi họ thấy có ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm
đạo với Thầy Giêsu. Lạ thật đấy! Thấy vậy, ông Phêrô khoái chí thưa ngay: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia.” Chỉ cần làm lều cho ba bề trên thôi, còn ba đệ tử thì sao cũng được,
miễn sao cứ có cảm giác vui sướng kỳ lạ thế này là OK lắm rồi. Phêrô nhà ta có
“chạm mạch” bất ngờ không nhỉ? Chắc hẳn là “không,” mà chỉ vì quá đỗi hạnh
phúc, một cảm giác chưa bao giờ ông có được. Lạ lùng lắm!
Thánh sử Máccô cho biết rằng thật ra ông Phêrô
không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Chắc hẳn ba ông vừa sợ, vừa lo, nhưng
cũng vừa khoái, vừa mừng. Cảm giác khó phân biệt. Có lẽ cũng tương tự mất trí
vậy, chẳng nhớ gì ráo trọi. Đang hứng khởi, bỗng có một đám mây bao phủ các
ông. Tiếc hùi hụi!
Cứ từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ba
ông đang chẳng hiểu gì, bỗng từ đám mây lại phát ra tiếng phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời
Người.” Các ông chợt nhìn quanh, ôi chao, chẳng thấy ai nữa, chỉ còn Đức
Giêsu với các ông mà thôi. Sao thế nhỉ? Bứt tóc, giật râu, nhéo tay, vẫn thấy
đau, chân vẫn chạm đất. Vậy là vẫn hoàn toàn tỉnh táo, không phải mơ. Sự thật
trăm phần trăm đây mà, nhưng sao lạ quá chừng. Không hiểu nổi!
Miền Hạnh Phúc diệu kỳ thật. Hạnh phúc đích
thực có khác, khác lắm – dù mức độ có thể nhiều hay ít. Dọc đường từ trên núi
xuống, đi bên Thầy mà không môn đệ nào dám hỏi điều gì. Chúa Giêsu cũng chẳng
nói gì, nhưng Ngài truyền cho các ông KHÔNG ĐƯỢC KỂ LẠI cho ai nghe những điều
vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Lạy
Thiên Chúa, Nguồn Hạnh Phúc thật, xin giúp con nhận biết Ngài qua thiên nhiên, qua
môi trường, qua các sự kiện của đời con và của tha nhân, qua các biến cố xã hội,
và xin giúp con nhận thấy vinh quang Ngài trong vạn vật, hữu hình và vô hình.
Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment