Tự do tôn giáo quan
trọng vì nó dẫn tới sự thịnh vượng kinh tế, và điều này có thể đánh vào một số
vấn đề phi luân lý một cách vô ích. Nhưng chúng ta không nên bối rối vì các mối
lợi hạn hẹp gây ra hệ lụy luân lý đó.
Ngày 13-3-2014, tuần
báo Công giáo Asia News đã công bố cuộc phỏng vấn Brian Grim, người đã nhiều
năm là trưởng Cơ sở Dữ liệu Quốc gia cho Trung tâm Nghiên cứu Pew về Dự án Cộng
đồng và Tự do Tôn giáo, nay là chủ tịch Tổ chức Tự do Tôn giáo và Kinh
doanh. Grim là một trong các nhà nhân khẩu học uy tín nhất trên thế giới. Hỏi
ông về số Phật tử ở Venezuela, ông cho biết có khá nhiều. Khác với các tôn giáo
khác, một trong các lĩnh vực chuyên môn của Grim là vấn đề tự do tôn giáo ở các
nơi trên thế giới.
Một dịp phỏng vấn là
vụ tàn sát vào ngày 1 tháng Ba ở nhà ga xe lửa tại TP Kunming (Công Minh,
thường gọi là Xuân Thành – thành phố Mùa Xuân), thuộc miền Nam Trung quốc, có
29 người tử vong và thương vong. Mặc dù Kunming cách xa tỉnh Tân Cương (Xijiang),
thuộc Tây Bắc, nơi có những vụ khủng bố bởi người Uighur (Duy Ngô Nhĩ, khu tự
trị), một dân tộc thiểu số theo Hồi giáo, nói tiếng Turkic. Chính pgủ Trung
quốc liền đổ tội cho người Uighur về vụ này, có thể với chút biện hộ nào đó. Có
những vụ di dân lớn của người thiểu số Trung quốc tới tỉnh này, nơi người
Uighur bản xứ chiếm gần 50%. Bất kỳ phong trào nào không ủng hộ quyền tự trị
của người Uighur đều bị ngăn chặn.
Ở đây Grim muốn ủng
hộ tự do tôn giáo, nhưng ông không là chuyên gia nếu ông không dùng dịp này để nhấn
mạnh rằng Trung quốc là một quốc gia rất đa nguyên về tôn giáo. Đa số người
Trung quốc được coi là người theo “đạo thờ ông bà”, một số khác theo Lão giáo
và thờ đa thần (chẳng hạn, Thần Bếp – Táo quân). Chính thức có 244 triệu Phật
tử (cũng không chắc, vì có nhiều tín ngưỡng từ các truyền thống khác – Điều Răn
thứ nhất trong Mười Điều Răn chưa bao giờ có ở Trung quốc). Chính thức có 68 triệu
Kitô hữu và 25 triệu tín đồ Hồi giáo. Hồi giáo có thể hơn cùng với người Uighur.
Kitô hữu chắc chắn hơn nhiều – đa số mức tăng nhiều là các tín hữu thuộc Kitô
giáo, dù không chính thức hoặ bất hợp pháp, do đó mà khó ước tính chính xác.
Quan điểm chính của Grim
cho rằng tự do tôn giáo là yếu tố quan trọng để kết hợp xã hội hỗn tạp này – và
như vậy là cung cấp các điều kiện xã hội để thành công về kinh tế: “Tôi không nói rằng tự do tôn giáo là điều
làm cho kinh tế thành tựu, nhưng nếu hạn chế một cách khắc nghiệt về tôn giáo
và các vấn đề khác (như trong thời Cách Mạng Văn Hóa), mức thành công mà chúng
ta thấy ngày nay sẽ không đạt được”.
Chế độ này vẫn hà
khắc với tôn giáo. Lý thuyết chính vẫn là chủ nghĩa vô thần Mác-xít (Đảng Cộng
Sản vẫn coi trọng). Chế độ này có một số vấn đề về tôn giáo – Phật giáo vì Tây
Tạng (Tibet), Hồi giáo vì Xinjiang – nhưng đảng vẫn được chuẩn bị để thừa nhận
rằng tôn giáo có thể là yếu tố tích cực đối với việc hiện đại hóa và phát triển
– nhất là Kitô giáo. Vài năm trước, khi tôi thăm Tổ chức Quốc Gia Quản Lý Các
Vấn Ðề Tôn Giáo (State Administration of Religious Affairs – SARA) tại Bắc Kinh,
tôi ngạc nhiên khi nghe chủ tọa nói về Max Weber (Maximilian Carl Emil
Weber, 1864-1920, nhà kinh tế chính trị và xã hội người Đức, được coi là
một trong bốn người sáng lập ngành xã hội học và quản trị công đương đại).
Tôi nghĩ rằng ngày nay
chính sách của chế độ này đối với tôn giáo (dù khác nhau tùy vùng và thất
thường) không nặng tính Mác-xít bằng Nho giáo. Điểm chính trị chính là
trật tự bình an. Mục đích ngầm, ngày nay thường trích dẫn nguyên văn, là “xã
hội hài hòa” – quy luật cốt lõi của triết lý chính trị Nho giáo. Nếu chính phủ
cẩn thận và sáng suốt thì có thể biết chắn rằng tôn giáo phục vụ sự hài hòa hơn
là sự mất trật tự.
Điều này có nguồn ốc
thực tế (quy luật “nếu bạn sẽ”, quy luật Machiavellian). Các quan chức của thời
kỳ Đế quốc La mã, hoặc thời kỳ thuộc địa Anh (British Raj) tại Ấn Độ, có thể
thoải mái với điều đó. Dĩ nhiên không có gì để xử lý với sự thật về một
tôn giáo. Phong-xi-ô Phi-la-tô nói rõ điều đó khi xử án Chúa Giêsu, ông ta
hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Brian
Grim là một tín hữu quan tâm vấn đề tự do tôn giáo. Nhưng ông đồng ý với Nho
giáo ở đây. Có thể vì vấn đề là Trung quốc, có thể ông thực sự nghĩ về thính
giả quan tâm Nho giáo. Thật vậy, trong một bài giảng thuyết tại Đại học Renmin nói
về thời gian gặp tổ chức SARA, tôi cũng đồng ý tương tự về Nho giáo, không chỉ về vấn đề tự do tôn
giáo mà còn về nhân quyền (nói chung).
Tôi nghĩ rằng một
thỏa hiệp sâu sắc về tự do tôn giáo nằm trong các tài liệu quan trọng nhất của
Công đồng Vatican II, tuyên ngôn Dignitatis Humanae (tuyên ngôn về tự do
tôn giáo được Đại Hội Đồng biểu quyết ngày 7-12-1965 với 2208 phiếu thuận và 70
phiếu chống, triều đại ĐGH Phaolô VI), trực tiếp liên kết sự tự do tôn
giáo với việc không vi phạm nhân phẩm. Mọi người hiện hữu trên thế giới đầy bí
ẩn và sự lạ này, do đó họ có quyền đối chất với thực tế một cách tự do, không bọ
áp bức.
Người ta có thể tin vào
lý do sâu xa nhất hành động, và công khai trao cho người khác, thực tế hơn, các
lý lẽ về hành động như vậy? Vì Max Weber được đề cập, hãy để tôi nói tới sự
phân biệt của ông giữa đạo đức của thái độ và đạo đức của trách nhiệm: Cái
trước được hướng dẫn bằng quy luật, các sau được hướng dẫn bằng kết quả. Chính
“ơn gọi chính trị” theo cái trước chứ không theo cái sau. Mục đích của chính
trị không là “nói thật với quyền lực”, mà là đạt được kết quả đặc biệt (nên là
luân lý).
Sau giữa thập niên 1980,
đại đa số cộng đồng kinh doanh Nam Phi, kể cá các khu nói tiếng Afrikaan (tiếng
Hà Lan pha tạp được dân Nam Phi sử dụng), đều quyết định rằng chế độ phân biệt
chủng tộc phải “ra đi”. Nhiều người tin rằng điều này nằm ngoài cảm thức tội
lỗi về luân lý (trường hợp đáng khâm phục là trường hợp Harry Oppenheimer, một nhà
tài phiệt về mỏ, người chống lại chế độ phân biên chủng tộc ngay từ đầu, vì ông
tin chắc rằng đó là sai lầm về luân lý, một sự vi phạm nhân phẩm không thể chấp
nhận). Nhưng nhiều người vẫn chống lại việc đào tạo chống phân biệt chủng tộc
hồi cuối thập niên 1980, điều này không được thuyết phục.
Các bài giảng của
ĐGM Desmond Mpilo Tutu (sinh ngày 7-10-1931, Nam Phi, nhận Giải Nobel Hòa Bình
năm 1984) kết luận rằng, nếu không dừng lại, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc sẽ hoàn
toàn làm suy sụp kinh tế (kể cả việc công và việc riêng). Bất kỳ động lực nào
cũng có thể chiến thắng lớn về luân lý.
Tôi nghĩ chúng ta
không nên xin lỗi về việc thỏa hiệp với Nho giáo về vấn đề tự do tôn giáo. Dĩ
nhiên đáng mong ước nếu có nhiều người dám lên án tội về luân lý chứ không vui
thích. Nhưng chúng ta không nên quá bối rối nếu điều đó sinh ra hệ quả đáng mong
ước về luân lý.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ the-american-interest.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment