Bửu Huyết Giê-su Tươi Màu Cứu Độ
Tội Khiên Thế Giới Hóa Sắc Tinh Tuyền
Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang của Kitô giáo – nói riêng, và của cả nhân loại – nói chung. Thứ Sáu Tuần Thánh là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 3 giờ chiều), giờ của Lòng Chúa Thương Xót. Không có Lòng Chúa Thương Xót thì nhân loại chỉ là hư vô!
Cuộc chia ly nào cũng bịn rịn, lưu
luyến, đau khổ và đẫm đầy nước mắt, nhất là cảnh biệt ly khi người thân về bên
kia thế giới. Lúc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc xúc động
nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy
người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột
nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội. Giây phút biệt ly thường
là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong chốc lát, nhưng lại nặng nề trôi… ngỡ như
thăm thẳm! Và giây phút cuối đời cũng là lúc người ta nói thật nhất.
Chúa Giêsu có hai bản tính: Thần Tính và
Nhân Tính. [1] Về nhân tính, Ngài cũng rất đau đớn vì đã kiệt sức do đòn roi
suốt đêm, vác Thập Giá lên đồi cao theo con đường gập ghềnh, ngoằn ngoèo, Ngài té
lên té xuống nhiều lần, trong khi phải chịu đói chịu khát vì mất máu nhiều, Ngài
còn bị những gai nhọn đâm thấu đầu, tiếp theo lại bị đinh ghim chặt chân tay,
và cuối cùng bị lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn. Rất nhức buốt. Chúng ta
không thể tưởng tượng nổi. Thân xác Ngài tàn tạ, tiều tụy, tơi tả, đến giọt Máu
và giọt Nước cuối cùng cũng chảy ra hết vì thương xót nhân loại. Chúng ta chỉ
bị cái dằm đâm vào tay cũng la toáng lên rồi!
1. CON CHIÊN HÀM OAN
Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Isaia, Thiên
Chúa đã minh định: “Người tôi trung của
Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” dù cho
“tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng
ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” (Is 52:13-14) Nhưng mọi người
đều phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn. Người tôi trung đó làm cho “muôn
dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng.” (Is 52:15) Người tôi trung đó là
Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ, Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, “như
chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng
kêu ca.” (Is 53:6; Cv 8:32)
Chúng ta đã được biết về “hành trình
đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ, thậm chí
có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên vẫn thấy… bình thường, và cũng chỉ là
“chuyện nhỏ.” Kinh Thánh cũng đã nói: “Điều
chúng ta đã nghe, ai mà tin được?” (Is 53:1) Thật khó tin, nhưng lại hoàn
toàn là sự thật!
Ngôn sứ Isaia mô tả chi tiết: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây
trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng
còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa
thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi
bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi,
không đếm xỉa tới.” (Is 53:2-3) Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những
bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta
lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.” (Is
53:4) Thật nghịch lý, có lẽ vì chúng ta quá ảo tưởng!
Bảng đối chiếu liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, Ngài
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình
an, Ngài đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lành.” (Is 53:5) Trí
óc loài người không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu
cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột,” là “ngu xuẩn,”
là “điên khùng,” là “mất trí,” là “tâm thần.” Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta
lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả,” nhưng Đức Chúa đã đổ tội
lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị
“ngược đãi mà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm
thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng.” (Is 53:6) Người
Ấy còn “bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu.” (Is 53:8a) Thậm chí “Người Ấy
còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,” và “vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh
phạt.” (Is 53:8b) Người Ấy chịu đủ thứ khổ hình vì các tội nhân là chúng ta,
chứ Người Ấy chỉ bị hàm oan, vì Người Ấy hoàn toàn vô tội.
Cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa
bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng
không hề nói chuyện điêu ngoa.” (Is 53:9) Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của
Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy mà Ý Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính,
tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi
của họ.” (Is 53:11) Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng
tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những
kẻ tội lỗi.” (Is 53:12) Trong “núi tội” đó có rất nhiều tội lỗi của mỗi chúng
ta!
Thánh Vịnh đã nói lời cuối của Người
Ấy – một người trong cơn hấp hối: “Con ẩn
náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công
chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã
cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.” (Tv 31:2 & 6) Người Ấy tâm sự
với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên
trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh
hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không
người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ.” (Tv 31:12-13) Là con người
thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên
nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở
trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con.”
(Tv 31:15-16)
Người Ấy chấp nhận mọi thiệt thòi và luôn
vững tin cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan
rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ,” (Tv 31:17) đồng
thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo
lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25) Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta,
vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” (Ga
15:18) Người Ấy là ai? Là Đức Kitô, là Thầy Giêsu, là Chúa của chúng ta.
Thánh Phaolô minh định: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã
băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.” (Dt 4:14) Thánh
Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách
về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy
mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và
lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:15-16) Trong các ân sủng, Lòng Chúa
Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau
khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta.
Khi còn sống kiếp phàm nhân, và theo
nhân tính, Đức Giêsu cũng đã từng lớn
tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời
khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được
nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta
đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau
khổ mới học được thế nào là vâng phục.” (Dt 5:7) Thật không hề đơn giản chút
nào! Nhưng chính lúc đó là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi “Ngài trở
nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5:9) Trước
khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường
gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới
sự phục sinh vinh quang.
2. ĐÓN NHẬN ĐAU KHỔ
Phúc Âm hôm nay là bài trường ca đau
khổ, là tấn bi kịch trầm hùng, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo hội gọi là Bài
Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết
như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng. Thật kỳ diệu biết bao!
Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra.” Một trong mười
hai đệ tử “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với
giá quá bèo – không đáng bao nhiêu so với bình dầu cam tùng mà cô Maria (Ga
12:1-8; x. Ga 11:1-2) đã xức chân Thầy Giêsu tại Bêtania.
Người ta đã tìm mọi cách gài bẫy, lục
soát, và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi,
giành quyền lực, lấy mất “chiếc ghế quyền lực,” thế nên họ làm mọi cách hạ nhục
Ngài đủ mưu đủ chước. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà
họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm
Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay
không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!
Khi Ngài điềm nhiên hỏi họ tìm ai, họ ngang
nhiên đáp: “Tìm Giêsu Nadarét.” Ngài
vừa nói “chính tôi đây,” họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Ấy thế mà
họ vẫn cố chấp, cố ý nhắm mắt chứ không chịu mở mắt. Có lẽ lúc này Giuđa là
người đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền
phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài – tức là
bọn thủ ác bị mắc lừa. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện
không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài. Trí óc phàm nhân chúng ta không thể
nào hiểu nổi!
Họ lồm cồm bò dậy. Ngài lại hỏi một
lần nữa: “Các anh tìm ai?” Họ vẫn
cương quyết như đinh đóng cột: “Tìm Giêsu
Nadarét.” Họ vẫn không hề tởn chút nào. Gan cóc tía. Lì thật! Và rồi Đức
Giêsu thản nhiên nói: “Tôi đã bảo các anh
là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này
đi.” (Ga 18:8) Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều
đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những
người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.” (Ga 18:9) Tính nóng hơn
Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà
“chơi” một phát đứt tai phải của Mankhô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy
xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga
18:11) Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.
Họ bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài
đến ông Khanan là nhạc phụ ông Caipha. Ông Caipha làm thượng tế năm đó. Chính
ông này đã đề nghị với người Do Thái: “Nên
để một người chết thay cho dân thì hơn.” (Ga 18:14) Nghe chừng nhân đạo
nhưng lại vô cùng thâm độc. Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức
Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong
của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan
ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen
biết có khác!
Nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận
ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Đâu phải.” Và ông chối phắt bất kỳ ai
nhận ra ông, tổng công 3 lần trước khi gà gáy. Với bản tính nhân loại nên ông
rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Tội
nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó
là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay!
Mặc dù Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị
đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói gì,
không nửa lời tự biện minh cho mình là đúng, không một lời kêu oan nào!
Đến khi bị tra hỏi về các môn đệ và
giáo huấn, Đức Giêsu mới trả lời: “Tôi đã
nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền
Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi
không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ
hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” (Ga 18:19-21) Ngài
vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” (Ga
18:22) Hỗn láo thật! Nhưng Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23) Cách đối đáp và lý luận của Chúa
Giêsu tuyệt vời quá!
Sau đó, ông Khanan cho giải Ngài đến
thượng tế Caipha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì
sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng
động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa
Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông
này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” (Ga 18:30)
Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước
áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông
có phải là vua dân Do Thái không?” Đức Giêsu không nhận và nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu
Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị
nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” (Ga
18:36) Vậy mà ông Philatô vẫn không hiểu nên hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm
mục đích là làm chứng cho sự thật.
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18:37) Ông Philatô “dốt
đặc cán mai” nên ngớ ngẩn hỏi: “Sự thật
là gì?” (Ga 18:38)
Theo tục lệ của người Do Thái, vào mỗi
dịp Lễ Vượt Qua, họ thường phóng thích cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ
muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ la to: “Đừng
tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40) Baraba là một tên cướp khét
tiếng, vậy mà họ còn thương mến và yêu quý hơn là Chúa Giêsu. Lạy Chúa tôi!
Thế là tổng trấn Philatô truyền đem
Đức Giêsu đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người
một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào
Vua dân Do Thái!” và vả vào mặt Ngài. Như vậy, nhân vị của Ngài đã bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và
nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài
để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa
thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6)
Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta
không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” (Ga 19:6)
Một người nắm quyền trong tay và biết
rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, người đó quả là bất tài, vô dụng,
ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người
khác. Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng
được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và
nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?
Dù ai nói ngả, nói nghiêng, nói xuôi,
nói ngược, nói tới, nói lui, và họ có nói gì thì Chúa Giêsu cũng chỉ im lặng. Ngài
biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu
gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo”
Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước
đoạt! Và Chúa Giêsu nói với ông Philatô: “Ngài
không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi
cho ngài thì mắc tội nặng hơn.” (Ga 19:11) Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy
“nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo
quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng
chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.
Cuối cùng, ông Philatô cũng đành cho
thi hành án tử đối với “tử tội công chính” là Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác
Thập Giá lên đồi Gôngôtha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Canvê, nơi xử
tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên
Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét,
Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri,
La Tinh và Hy Lạp. [2] Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do
Thái,” nhưng ông Philatô nói: “Ta viết
sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22) Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ
không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen!
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong,
họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu!
Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan
cho Đức Mẹ. Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Nhưng người ta
lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức
Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” (Ga 19:32)
Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí.
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang
của Giáo hội. Sự kiện hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ,” là “hiến lễ của mọi
hiến lễ,” là “thánh lễ của mọi thánh lễ.” Vì thế, Giáo hội không cử hành thánh
lễ mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh Giá và rước lễ.
Tình Giêsu là “tình cho không biếu
không,” nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là
tội nghiệp chính mình. Khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa
than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử, nên Ngài đã quay lại
và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem,
đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc
cho phận mình và cho con cháu.” (Lc 23:28)
Một điểm khác chúng ta cần lưu ý là
“tính a dua,” như người ta thường nói: “Người
ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo.” Ui da!
Thật là nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh
đâu âu đó!
Giờ Thương Xót đã điểm. Người được
lãnh Hồng Ân Thương Xót đầu tiên là tướng cướp Dismas, tử tội cùng bị đóng đinh
với Chúa Giêsu: “Hôm nay, anh sẽ được ở
với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23:43) Diễm phúc biết bao!
Hôm nay, khi tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu Kitô, Giáo
hội cầu nguyện cho mọi tầng lớp trong xã hội, ước gì chúng ta cũng quyết tâm
thực hành lời Thánh Vịnh: “Hãy bênh quyền
lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn; minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng, giải
phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.” (Tv
82:3-4) Đó là sống lòng thương xót. Chúng ta đã được Chúa Giêsu thương xót,
chúng ta không thể không thương xót người khác!
Ơn Cứu Độ thật tuyệt vời: Máu Chúa đỏ tươi đã tẩy rửa tội nhân chúng ta
nên trắng ngần. Xin trọn đời tạ ơn Lòng Chúa Thương Xót.
Lạy Thiên
Chúa giàu lòng thương xót, chúng con thật khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành,
chúng con a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính. Chúng con
chân thành thú nhận mọi lỗi lầm, thành tâm xin lỗi Ngài – và xin lỗi tha nhân.
Xin thương xót và ban cho chúng con Thánh Ân Cứu Độ của Con Một Ngài. Chúng con
cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
[2] Híp-ri: יסוע נצריא מלכא דיהודיא; Latin: Iēsus Nazarēnus,
Rēx Iūdaeōrum; Hy Lạp: Ιησουσ Ο Ναζωρεοσ Ο Βασιλευσ Των Ιουδαιων.
https://tramthienthu.blogspot.com/2016/02/bi-ve-cai-chet-cua-chua-giesu.html
✽ Những Điều Chưa Biết về Thứ Bảy TT
https://tramthienthu.blogspot.com/2019/04/nhung-ieu-can-biet-ve-thu-bay-tuan-thanh.html
✽ Tại Sao Chúa Giêsu Chết & Sống Lại?
https://tramthienthu.blogspot.com/2016/03/tai-sao-chua-giesu-chet-va-song-lai.html
✽ Chúa Nhật Phục Sinh – https://tramthienthu.blogspot.com/2019/04/chua-nhat-phuc-sinh.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment