Tự tôn và khinh người là hai động thái có liên quan lẫn nhau. Vì tự tôn, người ta cho mình là “số dzách” hoặc “ngon” hơn nên khinh miệt người khác. Tự tôn là tự kiêu, là kiêu ngạo, trái ngược với khiêm nhường. Khiêm nhường như tòa nhà, khó khăn lắm mới xây dựng nên; kiêu ngạo như đốm lửa, nó có thể thiêu rụi cả tòa nhà bất cứ lúc nào. Pascal nhận xét rất chí lý: “Cái tôi là đáng ghét.”
Nữ văn sĩ Jane Austen (1775-1817)
người Anh, tác giả của các tác phẩm nổi tiếng như “Sense and
Sensibility” (Tri Thức và Tri Giác) và “Pride and Prejudice” (Kiêu Hãnh và
Định Kiến), so sánh: “Kiêu căng và kiêu
hãnh là hai chuyện khác nhau, dù các từ ngữ này thường được dùng như đồng
nghĩa. Một người có thể tự hào về bản thân mà không tự cao tự đại. Kiêu hãnh
liên quan nhiều tới quan điểm của chúng ta về bản thân; kiêu căng là những gì
chúng ta muốn người khác nghĩ về mình.”
Có lẽ ai cũng đã từng hơn một lần cảm nhận
được sự khinh miệt của người khác – qua ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái.
Với người khiêm nhường, họ cảm thấy buồn nhưng im lặng. Với người chưa khiêm
nhường đủ mức, họ cảm thấy tức giận, uất ức hoặc căm phẫn, và họ phản ứng dữ
dội, thậm chí có người dám ra tay hại đối phương. Đã có những vụ giết người chỉ
vì người ta thấy “đối phương” dám “nhìn đểu” mình hoặc “nhìn thấy ghét.”
Chúa Giêsu đã từng bị người ta coi thường, bị
ghét tới “tận cùng bảng số,” dù Ngài chỉ làm những điều tốt lành, là Đấng chí
thánh. Còn chúng ta, nếu có bị khinh thì cũng dễ hiểu, là lẽ thường tình. Thật
vậy, chúng ta là phàm nhân còn nhiều lầm lỗi, có bị khinh cũng chẳng lạ chi cả.
Vả lại, chính chúng ta cũng có những lúc cảm thấy “khó ưa” người khác – tức là
coi thường hoặc khinh người khác. Vậy nếu chúng ta có bị khinh thì cũng đâu có…
oan!
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự. (x. 1 Sb 28:9;
Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv
139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr
11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6) Chính Thiên Chúa cũng xác định rạch ròi với ngôn
sứ Giêrêmia: “Trước khi cho ngươi thành
hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa
ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân.” (Gr 1:5) Rõ ràng Ngài biết
trước từ đời đời, quan phòng và tiền định từ khi chúng ta chưa là “hạt bụi” nào
trên thế gian này. Ngài biết mọi sự đã và sẽ xảy ra để nâng đỡ chúng ta, để bảo
bọc chúng ta theo lòng thương xót của Ngài: “Lạy
Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem
xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên
lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn
tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5)
Thiên Chúa đã tuyển chọn Giêrêmia làm ngôn
sứ, và Ngài giao trách nhiệm cho ông: “Còn
ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những
gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi
run sợ luôn. Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên
cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư
tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì
được, vì có Ta ở với ngươi để giải
thoát ngươi.” (Gr 1:17-19) Thế thì an tâm rồi, có Chúa là thành lũy, là sức
mạnh, là khiên thuẫn,… đâu sợ gì nữa!
Tuy nhiên, chúng ta dễ “ngủ quên trong chiến
thắng” và dễ ảo tưởng. Phàm nhân là thế đó! Biết vậy, tác giả Thánh Vịnh đã không
dám ỷ lại, mà luôn phải cầu xin: “Con ẩn
náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Vì Ngài công
chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài
nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì
bảo vệ con, chính là Ngài. Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ
dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man.” (Tv 71:1-4) Cuộc sống
rất nhiêu khê, “căng” lắm, ba thù (xác thịt, thế gian, và ma quỷ) lúc nào cũng trực
chiến. Mà ma quỷ như virus, chỗ nào cũng có, lúc nào cũng có. Sơ sảy một chút
là “chết” với nó ngay thôi!
Cảnh giác với ma quỷ và thế gian là chuyện dễ
hiểu, nhưng đặc biệt là phải cảnh giác mới chính mình. Ngoại gián là đáng sợ,
nhưng nội gián còn đáng sợ hơn. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh không dám lơ là,
phải luôn tâm niệm ngày đêm: “Lạy Chúa,
chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin
tưởng ngay từ độ thanh xuân. Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã
kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi.” (Tv 71:5-6) Chắc
chắn chúng ta cũng không thể làm khác hơn được, vì đó là “bí quyết” tự bảo vệ
mình để làm khỏe mạnh hệ miễn nhiễm tâm linh.
Không chỉ vậy, chúng ta còn phải quyết tâm và
không ngại miệng thân thưa với Chúa: “Miệng
con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban. Từ độ
thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con
vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài.” (Tv 71:15 và 17) Vâng, đó là điều cần
thiết, và như Thánh Phêrô đã xác định với Sư phụ Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những
lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6:68-69)
Thánh Phaolô động viên và chỉ “mẹo” cho chúng
ta: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh
em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng
nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” (1
Cr 12:31) Bí quyết đó là gì? Đức ái, hoặc đức mến.
Trong Thư I gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh
Phaolô dành cả chương 13 (1 Cr 13:1-13) để giải thích chi tiết và cụ thể: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của
loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, tôi cũng chẳng
khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói
tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất
cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, tôi cũng chẳng là gì.
Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để
chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì
nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm
điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không
mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ
tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao
giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có
ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có
ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, cái có ngần có hạn sẽ
biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết
như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, tôi bỏ tất
cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương,
mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi
sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến,
cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn
cả là đức mến.”
Đức mến là đức ái, là biết yêu thương, biết
động lòng trắc ẩn, biết thương xót – đặc biệt đối với những người hèn mọn, thấp
cổ bé miệng. Thương xót từ ánh mắt, ý nghĩ, đôi tay, đôi tai, cái miệng, con
tim,… Mẹ Teresa Calcutta nói: “Có
tin thì mới yêu.” Còn Thánh Gioan nói: “Ai
ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở
lại trong nó.” (1 Ga 3:15) Con tim luôn quan trọng hơn các chi thể khác.
Tự tôn trái ngược với khiêm nhường, khinh
người trái ngược với yêu thương, với lòng thương xót. Thế mà đôi khi chúng ta
lại không cho là vậy, mà cứ tưởng mình đang tốt lành, vì chúng ta thể hiện lòng
thương xót nhưng có điều kiện, có chọn lựa, tùy đối tượng. Đúng là ảo tưởng và
giả hình mà!
Thánh Luca cho biết rằng Đức Giêsu được quyền
năng Thần Khí thúc đẩy nên Ngài trở về miền Galilê, đến hội đường, mở sách và
đọc Kinh Thánh, xong rồi ngồi xuống. Cả hội đường chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt
đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4:21) Mọi người đều tán thành và thán
phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.
Rồi Ngài nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa
lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông
cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4:23) Ngài nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” (Lc
4:24) Một sự thật quá đỗi phũ phàng!
Người Việt nói: “Giòi trong xương giòi ra.” Những người khinh chúng ta không ai xa
lạ, những người ở gần chúng ta, thân nhân và bạn bè, vì người xa kẻ lạ có biết
gì đâu. Thật vậy, chính các thân nhân đã bảo Chúa Giêsu là người mất trí, bị
điên khùng, tâm thần, (x. Mc 3:21) nên họ tìm cách bắt Ngài về. Còn các kinh sư
nói Ngài bị quỷ ám. (x. Mc 3:22) Kinh khủng thật!
Con gà tức nhau vì tiếng gáy. Con người cũng
có máu… gà! Không làm được gì thì người ta chê là dở, nói là hèn, chửi là ngu,
rồi người ta khinh miệt và “đì” tới bến; làm được gì thì người ta không tin,
nói là khoe mẽ, rồi người ta gièm pha, giật dây, trù dập. Lưỡi không xương
nhiều đường lắt léo, cỡ nào cũng nói được, kiểu nào cũng bị khinh.
Thật vậy, Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ
nên biết rõ mười mươi. Ngài đặt vấn đề với họ: “Vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước
phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không
được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành
Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong
hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông
Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.” (Lc 4:25-27) Tại sao thế nhỉ? Họ chỉ “bới
bèo ra bọ, vạch lông tìm vết,” chứ không chịu “soi gương” xem mặt mình thế
nào. Và ngày nay, chúng ta cũng có hơn gì họ đâu, vẫn mỉa mai, ghen tức,
phe cánh,… Vậy mà vẫn tưởng mình “ngon,” thế mới chết chứ!
Y như rằng, nghe Chúa Giêsu nói vậy, mọi
người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành
này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực. Cháy
nhà ra mặt chuột. Nham hiểm thật! Thế nhưng họ không làm gì được Chúa Giêsu, và
Ngài băng qua giữa họ mà đi.
Chúa còn bị ghen ghét thì chúng ta chẳng là
chi cả! Tuy nhiên, nói với kẻ vừa ngu vừa cố chấp thì không bằng nói với đầu
gối, nói với cục đá, vì họ cứ trơ trơ cái mặt dày ra. Hãy ghi nhớ triết lý này:
“Đừng cãi lý với kẻ say, đừng bắt tay với
kẻ xấu, đừng chiến đấu với kẻ liều, đừng nói nhiều với kẻ ngu!”
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận thức đúng đắn, biết mình và biết người, để
không ảo tưởng mà tự tôn, không kiêu ngạo mà khinh người. Vâng, lạy Chúa, tất
cả đều là Hồng Ân của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân
loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment