Các nhà chiêm tinh mau mắn và
không ngại gian khó trên hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, và họ đã gặp được
Ngài. Họ đã dâng tiến Chúa những gì quý giá nhất. Đó là một Hành Trình Đức Tin.
Hêrôđê không gặp được Chúa vì độc
ác, nham hiểm, ích kỷ, tham quyền cố vị, ưa hình thức, trọng địa vị, khoái chức
tước, thích quyền lực để hành hạ người khác.
Lễ Hiển Linh trước đây được gọi
là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có ba người mà nhiều người, họ cũng không phải
là các Quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia. Họ
từ Đông phương xa lắc xa lơ, và với con mắt “nhà nghề,” họ đã nhận biết có Ánh
Sao Lạ xuất hiện, chắc chắn có sự kiện rất lạ. Ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã
phải tức tốc lên đường tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa
tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa
Thánh Thần. Họ cứ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường họ đến Belem, họ được diện
kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài ngay tại nơi hang đá xa xôi,
hẻo lánh, lại còn hôi tanh nữa.
Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho
nhân loại biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.
Các đạo sĩ đại diện nhân loại nhận biết và thờ lạy Con Thiên Chúa. Lời cầu
nguyện “xin cho Danh Cha cả sáng” đã và đang trở nên hiện thực.
Từ hàng ngàn năm trước, Thiên
Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay đã ứng nghiệm đúng như lời hứa đó: Ngôi
Hai mặc xác phàm làm người và ở giữa nhân loại. Ngài làm người để chia ngọt sẻ
bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên
Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân.
Chúng ta chỉ là những kẻ nô lệ
tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được chính Đức Giêsu đến tháo gỡ
mọi gông cùm của tội lỗi, và còn được thừa nhận là con cái của Thiên
Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng
lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như
bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ
lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người
xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên
Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn
chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng.
Thật hạnh phúc biết bao! Chúng ta
không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được
Ngài quan tâm, chăm sóc, nâng niu, chiều chuộng. Quả thật, chúng ta không thể
không vui mừng hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui còn hơn ngày hội
hoặc lễ, tết.
Và vì vậy, “chư dân sẽ đi về
phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến
bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con
trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” (Is 60:3-4) Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, và trong số
những người Việt, chúng ta lại được diễm phúc làm con cái của Thiên Chúa. Vâng,
Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu
của dân Việt chúng ta.
Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như
ngôn sứ Isaia đã tiên báo: “Trước
cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn
giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc
đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va
kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức
Chúa.” (Is 60:5-6)
Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên
lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính
là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với
trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ
nghèo hèn.” (Tv 72:6) Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người
hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai
phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội
lỗi sám hối ăn năn,” (Lc 5:32) Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất,” (Lc
19:9) và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào.” (Ga 10:10) Cách làm
của Vua Nghèo quá “khác người”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không
muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã
nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của
Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là
đường lối của Tôi.” (Is 55:8)
Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo
lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng
còn,” (Tv 72:7) để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước
thảy đều phụng sự.” (Tv 72:11) Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng
Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với
đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không
chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và
kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng
sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” (Tv 72:12-13)
Vương Quốc của Thiên Chúa là
vương quốc hòa bình, mọi công dân đều sống trong cảnh thanh thản, vô ưu, vô
sầu, và luôn tận hưởng niềm hạnh phúc thực sự.
Từ khắp nơi, không trừ nơi nào,
ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ “các hải đảo xa xăm, hàng vương
giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi
quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.” (Tv
72:10-11) Đức Kitô là Vua Công Lý, “Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ
khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống
dân nghèo, Người ra tay tế độ” (Tv 72:12-13). Đó là điều mà Giáo hội đang
rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công
đồng Vatican II.
Thánh Phaolô nói: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân
sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải
để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” (Ep
3:2-3) Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó
cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng
là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo.
Thánh Phaolô giải thích rõ
ràng: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã
không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng
Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó
là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế
gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều
Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6) Vì thế, chúng ta không có lý do gì để
“chảnh” hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai.
Thánh sử Mátthêu kể: Khi Đức
Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm
tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt
2:2) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai,
vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua
liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết
Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê”. Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ
ràng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền
đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh
tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2:6)
Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các
nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái
các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý
ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi,
để tôi cũng đến bái lạy Ngài.” (Mt 2:7) Nghe chừng tử tế quá! Miệng
nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại “đểu thật” chứ không “đểu giả,” lọc
lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị
lừa thì “chuyện đã rồi.” Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại
lời ăn tiếng nói và hành động của mình có “lệch pha” hay không, vì ai cũng có
thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình “tốt lành” nhưng thực ra lại đang mưu
mô thâm hiểm.
Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi,
vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. không hề biết vua
Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà,” mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn
năng” của mình thôi! Họ đâu ngờ rằng hôn quân Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như
vậy đâu, ông ta tính “đường dài” hơn, chơi “nước cờ” cao hơn. Chứ nếu ông ta
không tính xa thì hẳn ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị “cẩu đầu trảm”
rồi.
Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ
đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng
lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy
Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi. Sau đó, họ
“nựng” Bé Giêsu và trò chuyện rôm rả với Song Thân của Bé. Có lẽ lúc này lũ mục
đồng vẫn tíu tít bên Bé Yêu Giêsu, không muốn rời xa...
Giả sử nếu là chúng ta là các đạo
sĩ, chưa chắc chúng ta muốn bước vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho
nhanh, và có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu! Nhưng thật lạ, các đạo sĩ
là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy
Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy
thương,” nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ
mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A,” nhưng họ
vẫn không hề thất vọng và tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị
nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết Hàn Vương và kính
chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện
hoàn toàn có thật, không phải hư cấu do óc tưởng tượng của con người. Và rồi
không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã
chuẩn bị và đem theo. Quá đỗi diệu kỳ!
Ngày nay, chúng ta được dạy cho
biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ
nếu tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có
tên là Giêsu kia lại chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là
chúng ta may mắn. Thánh Phaolô viết: “Về
kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người
đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô.” (Ep 3:2-3) Thật đặc
biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết
mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông
đồ và ngôn sứ của Người.” (Ep 3:5) Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và
nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái,
cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6)
Một lần nữa, chúng ta lại thật
may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân
thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay
áo lên và hành động.” Đó là sống Đức Tin cụ thể, tức là thực hành lòng thương
xót và thể hiện lòng nhân từ như Thiên Chúa Cha.
Các hiền sĩ được báo mộng
là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, thế nên họ đã đi lối khác mà về xứ
mình. Họ lại tiếp tục nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình
thực sự may mắn vì thoát khỏi “nanh vuốt” của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa
làm thật là kỳ diệu!
Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị
nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh
“ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là
“làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha
nhân. Các đạo sĩ là bài học cảnh giác cho chúng ta đề phòng ngày nay, khi mà sự
ác đang hoành hành khắp nơi.
Lạy
Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ,
luôn miệt mài tìm kiếm Chúa và can đảm hành động đúng đắn. Xin “ánh sao” Ý Chúa
luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực
hiện mọi sự theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Xin cho chúng con trở
thành những ánh sao sáng để người khác có thể nhận biết Chúa, xin giúp chúng
con biết mau mắn và kiên trì tìm kiếm Chúa, và gặp được Chúa ngay trên cuộc lữ
hành trần gian này, nhất là được gặp Chúa trên Nước Trời mai sau.
Lạy
Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu thay. Xin giúp
chúng con sống ngay thẳng, tâm địa tốt lành, không nhìn người khác bằng nhãn
quan suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh
chúng con hoặc tư lợi. Chúng
con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment