Ngày 8-12-1854,
ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc “Ineffabilis
Deus” – Thiên Chúa Bất Khả Ngộ.
Hệ miễn nhiễm rất quan trọng đối với cơ thể, càng quan trọng hơn đối với hệ miễn nhiễm tâm linh. Nhiễm là “nhuộm,” nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, thường ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Vô nhiễm là một dạng miễn nhiễm, là không bị nhiễm những thứ xấu xa, nhất là “miễn nhiễm” tội lỗi.
Có nhiều thứ “nhiễm” trong cuộc sống: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ,
nhiễm bệnh,... Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã
từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ
hệ miễn nhiễm của cơ thể, làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu đối với một số
người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV – Human Immunodeficiency
Virus, căn bệnh thế kỷ này quen gọi theo Pháp ngữ là SIDA. Đó là một dạng thiếu
khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Quả thật, người Phi châu có dạng “vô nhiễm” kỳ
lạ biết bao!
Lễ Mẹ Vô Nhiễm đã
có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự
Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung
cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã
mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Năm 1060, các tu
sĩ đưa lễ này vào Anh quốc, tới năm 1127-1128, lễ này được lan rộng khắp Âu châu,
dù Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” ấy. Đầu tiên, đó là một
phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý
kiến mù mờ của thời đại.
Cùng với Thánh
Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền
tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không
thoát khỏi định luật ấy. Vả lại, người ta có một quan niệm phi khoa học về việc
thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng cách
sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với
thể xác vì bản tính con gái yếu kém. (sic!)
Các thần học gia lại
không biết làm sao thoát khỏi cái “vòng lẩn quẩn” này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc
hết mọi người. Nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội
tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà
thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh tiến sĩ Thomas Aquinô (1225-1274), đều cho
rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít là trong thể xác khi thai sinh.
Cuối thế kỷ XIII,
thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott cùng với tu sĩ Phanxicô là William Ware đã
có công học hỏi và đảo ngược lý luận trên. Chân phước Duns Scott lý luận rằng
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh
dự Chúa Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung
mãn của công cuộc ấy. Nhân loại được khỏi Nguyên tội khi lãnh nhận Bí tích
Thánh tẩy. Ở Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì
Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thể chữa lành tội lỗi mà còn ngăn
ngừa tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời! Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Và
rồi, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ
Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm
Nguyên Tội.” Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong
đời sống Giáo hội Lữ hành, vì lúc đó, Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm
được gần 4 năm.
Trình thuật St
3:9-15 là một cuộc “xưng tội công khai” của Ông Bà Nguyên Tổ trước Tôn Nhan
Thiên Chúa.
Thuở hồng hoang, Đức
Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi
ở đâu.” Con người thưa: “Con nghe
thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.”
Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho
ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm
ngươi ăn không?” Con người thưa: “Người
đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.” Đức Chúa là
Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?” Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.”
Thiên Chúa nói với con rắn: “Mi đã làm
điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã
thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng
giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”
Đó là hệ lụy tội
lỗi, một dạng dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn.
Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… Thật
là nguy hiểm!
Được Thiên Chúa
ban cho “người đẹp” (chắc là dễ thương lắm) nên ông Adam nhà ta đặt tên cho vợ
là Eva, vì nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Người ta thường ví von: “Vợ ở mô thì thủ đô ở đó.” Đúng là “dữ
dằn” à nghen – tính từ “dữ dằn” có thể tùy hoàn cảnh mà hiểu hai nghĩa, tích
cực hoặc tiêu cực! Và cũng có một câu danh ngôn hay như thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn
bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông.” Vừa lô-gích, vừa thú vị, và cũng
chí lý thật!
Phụ nữ mềm mà
cứng, yếu mà mạnh. Chính sự “liễu yếu đào tơ” lại chính là thế mạnh của họ,
nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là
lũ đàn ông té hàng loạt. Khốn thay! Thật vậy, cô nàng chỉ “nhão” một chút khi
ẻo lả nói: “Anh ơi!,” thì ôi thôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu. Chẳng thế
mà Samson khỏe như voi cũng “chết ngắc” chỉ vì một phụ nữ, Đa-vít cũng “tiêu”
vì một phụ nữ, và Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ. Vâng chỉ
MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu.
Khiếp thật!
Người ta còn ví
von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn.”
Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì
trời,…” Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là
khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không đặt
vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm
không thấy mà tránh và có sức cuốn trôi mạnh hơn.
Vì một phụ nữ
phạm tội mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một
phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, đó là Đức Maria, mà nhân loại được
giải án tuyên công. May cho chúng ta lắm!
Nhận ra “cái may”
đó thì phải biết không ngừng tạ ơn. Như Thánh Phaolô nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong
Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc
của Thánh Thần.” (Ep 1:3) Và thánh nhân còn xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan
Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý
muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức
Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho
ta trong Thánh Tử yêu dấu.” (Ep 1:4-6) Rất rõ ràng, rất mạch lạc, và hoàn
toàn dễ hiểu.
Thánh Phaolô nói
thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền
định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng
tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh
quang Người.” (Ep 1:11-12) Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời
và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ, từng phút, từng
giây.
Ân sủng là ân
sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định đại ân hoặc tiểu ân, đại
xá hoặc tiểu xá. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một
mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là người cầu thay
nguyện giúp, là “ống dẫn” chuyển ơn phước từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Trình thuật Lc
1:26-38 nói về Cuộc Truyền Tin. Thánh sử Luca tường thuật: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần
Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành
hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là
Maria.
Sứ thần vào và
nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng,
Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào
như vậy có nghĩa gì. Sứ thần trấn an ngay: “Cô
Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai,
sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi
là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua
Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại
của Người sẽ vô cùng vô tận.”
Chu choa, gì mà
kỳ vậy? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh
sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, mặt đỏ bừng và nóng ran luôn! Thế nên Cô Maria thưa
với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào,
vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và
minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự
xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng
Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng
với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị
mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Nói đến Thiên
Chúa thì miễn bàn, không so đo chi cả, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế
là hai năm rõ mười rồi. Thế là tỏ rõ nguồn cơn. Chắc hẳn Cô Maria lúc đó đã thở
phào nhẹ nhõm, không còn phân vân chi nữa. Thế nên Cô Maria dịu dàng nói với sứ
thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói.” Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi… Thật là tuyệt vời
vì lời “xin vâng” của Nữ Tỳ Maria hoàn toàn tuyệt đối.
Và rồi “chốc ấy
Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người,” và Ngài ở cùng chúng ta. Ngài là Đấng
Emmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Đức Maria là một Nữ Tỳ nhưng Vĩ Đại,
đã trở thành Đấng Theotokos – “Người Mang Thiên Chúa.” Xin kính chào Đấng
Emmanuel. Và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước.”
Xin cùng hợp với
lời cầu của thi sĩ Paul Claudel (1868-1955, Pháp, thi tập “Tác Phẩm Thơ,” NXB
Gallimard 1967) để tôn sùng Đức Mẹ:
Bởi vì trái tim
con tràn ngập tâm tình!
Lạy Thiên
Chúa, xin giúp con đủ sức chống lại mọi cái xấu và cương quyết “thà chết chứ
không phạm tội” như Thánh “nhí” Saviô, xin cho con được “miễn nhiễm” với bất cứ
thứ gì nguy hiểm, đặc biệt là mạnh mẽ hệ miễn nhiễm tâm linh.
Lạy Nữ
Tỳ Vô Nhiễm, xin giúp con luôn biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ đã thể hiện, biết
sống khiêm nhu và vâng phục tuyệt đối như Mẹ, ở mọi nơi và mọi lúc, để Ý Chúa
nên trọn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại.
Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment