Mồ côi Cha là MỘT lần mồ côi, mồ côi Mẹ là BẢY
lần mồ côi. Cũng là mồ côi, nhưng mức độ khác nhau. Ca dao than thở rằng: “Còn
Cha còn Mẹ thì hơn, Không Cha không Mẹ như đờn đứt dây.” Tháng Bảy là
khoảng thời gian giữa năm, có hai nỗi buồn: buồn vì mối u tình của Ngưu Lang –
Chức Nữ, và buồn vì nỗi mồ côi của những ai không còn song thân phụ mẫu.
Rằm Tháng Bảy âm lịch được giới Tăng Ni Phật
tử gọi là Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành,
tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, Vu Lan còn là ngày xá tội vong
nhân. Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông Hồng ĐỎ, những ai
mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.
Mỗi năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy
“ghen” với những người còn cha mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những
người may mắn! Người Trung quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu.” Người có
công trực tiếp với chúng ta nhất chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống,
tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Vu Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ
ngày nay có chút gì đó bị lu mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói
chung, rất trọng chữ Hiếu. Như vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn
trọng và duy trì. Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ
thừa hưởng từ cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là
huyết thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc
đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa sinh
thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối cãi, không thể
bác bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút về lễ Vu Lan – vì nhiều người Công
giáo có thể chưa biết rõ!
TÍCH XƯA
Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã
cứu mẹ mình khỏi kiếp ngạ quỷ.
Sau khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ
và muốn biết mẹ mình thế nào nên dùng huệ nhãn dò tìm. Thấy mẹ rơi vào ngục A
Tỳ làm quỷ, bị đói khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp ác, ông đem cơm xuống
tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn, mẹ ông đã dùng một
tay che bát cơm để không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức
ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá thương cảm, Mục Kiền
Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù ta thần thông quảng
đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư
tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp
lập trai đàn để cầu siêu, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi
thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú tâm cầu cho cha mẹ và
ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát.”
Rằm Tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ (kết
thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ
được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời.
Tôn giả Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật
dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh
giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan Bồn Pháp, lễ cúng
đó gọi là Vu Lan Bồn Hội (tiếng Phạn là Avalambana), đó là nghi thức cầu siêu
độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày
Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong kinh Vu Lan Bồn. Còn bộ
kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.
Theo Phật Quang Đại từ điển, Vu Lan (tiếng
Phạn là Ullalambana), cũng gọi là Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo huyền
(nghĩa là “treo ngược” – nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của người bị
treo ngược, cực kỳ đau đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.
Và thế là mỗi năm, khi ngày này đến gần, các
phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ
tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức.
Theo truyền thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà Lương là người đầu tiên cử hành
hội Vu Lan Bồn Hội.
Theo Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam, Vu
Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan được cử hành
vào Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng
trong chiếc Vu Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân thoát khỏi địa ngục. Rằm
Tháng Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày các vong hồn được tha tội.
Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.
SUY TƯ
Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một
chút hoặc không văn minh hiện đại mà xem thường cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ
lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, có kém kiến thức hơn mình, hoặc có là gì đi nữa, thì
đó vẫn là những đấng sinh thành đáng kính. Chúng ta phải nhớ rằng bản thân mình
là một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù muốn
chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ rẫy,
vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng là một con người, vì một danh
nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con
người.” Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên đời này
không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa mẹ. Nếu ơn cao nghĩa dày như vậy mà
chúng ta quên đi thì những ơn khác trong xã hội – ơn của bạn bè, tình làng
nghĩa xóm, ơn của người vãng lai,… – làm sao chúng ta có thể biết ơn và đền ơn?
Kinh Thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ,”
(x. Tb 4:3; Hc 3:8) còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng CÓ
HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU.” Không có gì đối lập, dù đạo hay
đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu và
“trách yêu”: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha
con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48), nhưng rồi Chúa Giêsu vẫn
ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. (x. Lc 2:51) Vì
vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của chúng ta dành cho tổ tiên. Nghĩ
đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu thân, cố gắng
đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù lao” [*] của song thân phụ mẫu, như thế mới phần
nào xứng đáng là người con có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp “nhị
thập tứ hiếu” (truyện 24 người con chí hiếu).
Hãy thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện
cho những người đã khuất. Đó vừa là văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công
giáo vậy!
TRẦM THIÊN THU
Saigon, Mùa Báo Hiếu – 2011
[*] 1. Sinh (sinh nở), 2. Cúc (nâng niu, nâng
đỡ), 3. Phủ (vỗ về, âu yếm), 4. Dưỡng (nuôi nấng, cho ăn, bú mớm), 5. Trưởng
(nuôi cho khôn lớn), 6. Dục (dạy dỗ, uốn nắn), 7. Súc (săn sóc, chăm chút,
trông nom), 8. Phục (chiều chuộng), 9. Phúc (che chở, bảo vệ).
Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật
kể 10 công đức của mẹ đối với con cái: 1. Chín tháng cưu mang khó nhọc, 2.
Sợ hãi, đau đớn khi sinh, 3. Nuôi con cam đành cực khổ, 4. Nuốt cay, mớm ngọt
cho con, 5. Chịu ướt, nhường ráo cho con, 6. Sú nước, nhai cơm cho con, 7. Vui
giặt đồ dơ cho con, 8. Thương nhớ khi con xa nhà, 9. Có thể tạo tội vì con, 10.
Nhịn đói cho con được no.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment