Sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất, (Mt 16:21-23; Mc 8:3 -33; Lc 9:22) và cũng là lần ông Phêrô bị nguyền rủa “nặng nề” là Satan, Ngài đã cho ba môn đệ thân tín (Phêrô, Giacôbê và Gioan) đi theo lên núi Tabor [*] và cho họ được “nếm thử” vinh quang Nước Trời qua sự kiện Ngài biến hình sáng láng khi đàm đạo với ông Êlia và ông Môsê. Ngài cho họ thấy nhãn tiền vinh quang của Ngài như vậy là để củng cố đức tin cho các ông.
Tương tự, có một số người được
thị kiến (cách này hay cách nọ) về những điều khác nhau: Thánh Teresa Avila
(1515-1582) được thị kiến Hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690)
được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne Catherine Emmerich
(1774-1824) được thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) được
thị kiến Hỏa ngục và các thị kiến khác, đồng thời có nhiệm vụ loan báo Sứ điệp
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa,...
Cựu Ước cũng đã có một số người được
thị kiến. Ngôn sứ Đanien kể lại giấc mộng: “Tôi
đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của
Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của
ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ
trước nhan Người, một sông lửa cuồn
cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà
bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.” (Ðn 7:9-10) Đó là
quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách
cỏ lùng khỏi lúa. Đó là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc Thẩm
phán Tòa Thượng Thẩm xét xử mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời
đời.
Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn
thì kìa: có ai như một Con Người đang
ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn
đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang
và vương vị; muôn người thuộc mọi
dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của
Người là quyền vĩnh cửu, không bao
giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng
hề suy vong.” (Ðn 7:13-14) Những lời mô tả rất rõ ràng, cho thấy những
hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không là chuyện vui đùa
hoặc hù dọa, cũng chẳng là huyền thoại hoặc cổ tích, lại càng không phải là ngụ
ngôn.
Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã
động viên và tiên báo từ rất xa xưa: “Chúa
là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!
Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan
chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố
Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người.” (Tv 97:1-2, 5-6) Phàm
nhân không thể chịu nổi nếu nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa.
Mọi loài và mọi vật đều phải tâm
phục khẩu phục. Tại sao? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp
địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy.” (Tv 97:9)
Đã “thực mục sở thị” chính Thầy
Giêsu và kinh nghiệm đầy mình với những tháng năm theo Thầy Giêsu rong ruổi
khắp hang cùng ngõ ngách, Thánh Phêrô làm chứng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm
của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không
phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng
là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt
vẻ uy phong lẫm liệt của Ngườ.i” (2 Pr 1:16) Giáo hoàng tiên khởi cho biết thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha
ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán
với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến.” (2 Pr
1:17-18)
Và rồi Thánh Phêrô kết luận: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm,
cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em.” (2 Pr 1:19) Bảy
mươi còn phải học bảy mốt, chúng ta chỉ là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám
dại đột mà làm ngơ những lời chứng đó.
Tin không là điều dễ thực hiện
trong một sớm một chiều, chắc chắn khó lắm, thế nên Chúa Giêsu mới khuyến
khích: “Phúc thay những người không thấy
mà tin!” (Ga 20:29) Tin
và ảo tưởng rất dễ lầm lẫn, thế nên phải có được khả năng minh định rạch ròi.
Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc
cứ bán tín bán nghi. Thực sự khó lắm! Đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ
dễ bị cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu”
phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên
thường có thể làm sai, duy chỉ có đức
tin chân chính mới hoàn toàn không sai lầm.” Đức tin quan trọng, nhưng
phải là Đức Tin Chân Chính.
Chúng ta không có diễm phúc được
thị kiến như các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách thị kiến khác – như
nhìn vào thiên nhiên hoặc các biến cố của cuộc đời. Đa số các thánh cũng chỉ
“thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy mà thôi.
Mới trước đó một tuần lễ, Chúa
Giêsu nói rằng Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục,
các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”
(Mt 16:21) Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao
năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy
vọng được “nếm mật,” một lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp
nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng
được hưởng chút công lao là chức tước và bổng lộc. Chính Giacôbê và Gioan đã hí
hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em
chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi
Thầy được vinh quang.” (Mc 10:37) [Mt
20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm]. Thế
mà ngờ đâu Thầy lại sắp đi chịu chết! Lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động
đất mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Công dã tràng rồi. Trắng
tay. Thế là hết!
Chúa Giêsu biết các đệ tử đang
“ấm ức” và hầu như tuyệt vọng, nên sau đó, Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi,
cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu
đựng của con người có giới hạn. Các môn đệ cũng là những con người. Nếu không
mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông
sẽ rút lui không lời từ biệt, bỏ của chạy lấy người.
Trình thuật Mc 9:1-9 (≈ Mt 17:1-8; Lc 9:28-36) cho chúng
ta biết Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trên Núi Tabor trước mặt ba môn đệ thân
tín. Trước khi cho họ nếm thử hạnh phúc đích thực, Đức Giêsu đã nói với họ: “Tôi bảo thật các người: trong số những
người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không
phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.”
Phải chăng Ngài ám chỉ Chàng trai Gioan?
Sáu ngày sau, Ngài đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi
theo tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y
phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng
được như vậy. Và rồi họ thấy có ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Thầy
Giêsu. Lạ thật đấy! Thấy vậy, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông
Êlia.” Chỉ cần làm lều cho ba bề trên thôi, còn ba đệ tử thì sao cũng được,
miễn sao cứ có cảm giác vui sướng kỳ lạ thế này là được rồi. Phêrô nhà ta có
“chạm mạch” bất ngờ không nhỉ?
Thánh sử Mác-cô nói rằng thật ra ông Phêrô không biết
phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Chắc hẳn ba ông vừa sợ, vừa lo, vừa khoái,
vừa mừng. Cảm giác khó phân biệt. Có lẽ cũng tương tự mất trí vậy, chẳng nhớ gì
ráo trọi. Đang hứng khởi, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Tiếc hùi hụi!
Từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Ba ông đang chẳng
hiểu gì, bỗng từ đám mây lại phát ra tiếng phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn
quanh, ôi chao, chẳng thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Sao
thế nhỉ? Bứt tóc, giật râu, nhéo tay, vẫn thấy đau. Vậy là không phải mơ. Sự
thật trăm phần trăm đây mà, nhưng sao lạ quá chừng. Không hiểu!
Hạnh phúc luôn diệu kỳ – dù nhiều hay ít, dù to hay nhỏ. Dọc
đường từ trên núi xuống, đi bên Thầy mà không ai dám hỏi điều gì. Chúa Giêsu
cũng chẳng nói gì, nhưng Ngài truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe
những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết nhận ra Ngài qua thiên nhiên, qua các
biến cố, qua tha nhân, và xin giúp con nhận thấy vinh quang Ngài trong vạn vật.
Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Núi
Tabor còn được gọi là Har Tavor, Itabyrium, Jebel et-Tur, hoặc Núi Biến
Hình. Núi Tabor tọa lạc tại miệt dưới Galilê, Israel, thuộc phía Đông Thung
lũng Jezreel, cách Biển Galilê 11 dặm (18 km) về phía Tây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment