CHÂN DUNG LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES VÙNG AVIGNON RẤT KHÁC VỚI CHÂN DUNG “KHÔNG RÂU” TRONG BỨC HỌA VỀ CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THẦY ANRÊ PHÚ YÊN, HOẶC CHÂN DUNG ĐỘI MŨ TẠI NHÀ CÁC CHA MEP, RUE DU BAC, PARIS. Bản dịch: “ALEXANDRE DE RHODES, NGƯỜI AVIGNON, DÒNG TÊN, VỊ TÔNG ĐỒ ĐÀNG NGOÀI và ĐÀNG TRONG, qua đời ngày 5-11-1660.”
Có những người làm huyên náo lịch sử hiện
đại. chiếm lĩnh những trang đầu trên nhật báo; ầm ầm, xôn xao trên mạng
Internet, nhưng chôn cất xong là cũng… “câu chuyện đến đây là hết rồi.”
Saddam Huissen, Khadafi, Micheal Jackson… Nhưng có những người chết đã
2000 năm hay ba bốn trăm năm mà vẫn có “người yêu và kẻ ghét,” đích thị họ
là những nhân vật phi thường. Chúa Giêsu Kitô là một nhân vật ngoại lệ
chứng minh điều xác quyết trên. Lm Alexandre de Rhodes cũng “sống
mãi” với những lời khen chê của “Hội chợ Phù hoa” (Vanity Fair).
Mới đây linh mục Antôn vui mừng vì cuối cùng cũng tìm được một bức ảnh màu ngôi mộ của cha Alexandre de Rhodes, tuy hình ngôi mộ nầy đã được đăng trong tạp chí Missi số đặc biệt thập niên 1960. Thời gian ở Pháp 1994-1997, một linh mục Thừa sai Pháp hứa sẽ cho một photo màu nhưng rồi như “nước chảy qua cầu.” Nước Iran Cọng Hòa Hồi giáo hôm nay quá khắc khe với đạo Công giáo, chắc khó có ai đến đấy được kể cả các cha Dòng Tên phục vụ tại đó nhiều thế kỷ trước. Trên các trang mạng và email gần đây bài viết của tác giả Thanh Việt đã được “phát tán” nhanh. (Tìm nơi an nghỉ của cha đẻ chữ Quốc ngữ, tác giả THANH VIỆT). http://www.gdtd.vn/channel/2776/201308/tim-noi-an-nghi-cua-cha-de-chu-quoc-ngu-1971800/
Với hy vọng có thể tìm được nơi ông trở về
với cát bụi, chúng tôi, đoàn cán bộ Việt Nam đang công tác tại Iran đã đến
Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về phía Nam. Đó là một ngày đầu năm
2011, một tuần sau lễ Giáng sinh. Con đường cao tốc nối Teheran với
Isfahan phẳng đẹp như một dải lụa mềm vắt qua những núi đồi, cao nguyên hoang
vắng đầy sỏi đá. Đường tốt, nên chỉ hơn 4 giờ, chúng tôi đến Isfahan. Nằm
trên tuyến đường giao thương chính Bắc – Nam, Đông – Tây, Isfahan từng là kinh
đô của nước Ba Tư xưa. Thành phố này nổi tiếng với những kiến trúc Hồi giáo, có
nhiều đại lộ, nhà thờ tuyệt đẹp. Điều này khiến thành phố được người Iran đưa
vào câu thành ngữ: “Isfahan là một nửa của thế giới.” Quảng trường
Naghsh-i Jahan của Isfahan là một trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với
kiến trúc tiêu biểu Hồi giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân
loại. Tại thành phố này, Alexandre de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù
trước đó, phần đời chính của ông là ở Việt Nam.Chúng tôi đến Isfahan vào một
ngày mùa đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng.
Hỏi đường đến một nhà thờ Công giáo nào đó,
chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình. Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank,
nhà thờ thiên chúa lớn nhất Isfahan. Qua giây phút ngạc nhiên trước đoàn
khách Việt Nam, cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay,
hiếm có du khách Á đông nào, nhất là từ Việt Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt
tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về lịch sử nhà thờ. Nằm trong thế
giới Hồi giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo, nhưng vào bên
trong, với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ ngỡ như đang
ở một nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris. Cha xứ càng ngạc nhiên hơn khi
chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người đã mất cách đây hơn 350
năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư liệu quý giá. Cha xứ
nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên to khỏe khệ nệ mang ra
một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da nâu ghi chép về các giáo
sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng tột độ, cha và chúng tôi
tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm 1660.
Nơi cha Đắc Lộ nghỉ chânNhư vậy, không nghi
ngờ gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm việc những
năm cuối đời. Chúng tôi hỏi: “Thưa cha,
liệu có thể tìm thấy mộ của Alexandre de Rhodes ở đâu không?” Cha xứ tận
tình chỉ đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại ô
thành phố. Nghĩa trang nằm dưới chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán
rừng thông, tùng, bách mênh mông, vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo
nhưng không thấy một cây thánh giá nào.
Phân vân tự hỏi làm sao tìm được mộ cha Đắc
Lộ trong khu nghĩa trang rộng lớn này? Thật may, chúng tôi gặp được người quản
trang nhiệt tình. Ông chỉ đường cho chúng tôi đến khu mộ cổ. Chia nhau đi
các ngả tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có ghi rõ
tên Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một cụm ba
ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá lớn nằm
nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến động cuộc
đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét. Trong ánh nắng ban
trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy dâng lên
trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.
Rời Isfahan, trở về với công việc thường
nhật, chúng tôi cảm thấy có đôi chút may mắn là một trong những người Việt đầu
tiên tìm thấy mộ phần của cha Đắc Lộ. Thế giới nhiều khi hữu hạn, còn văn hoá
và ngôn ngữ dường như vô hạn. Xin cảm ơn Cha, người đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ
để cả dân tộc Việt sử dụng cho tới ngày hôm nay.
Trong phần giới thiệu bài viết có những dòng
chữ “Alexandre de Rhodes – người có công lớn trong việc tạo ra chữ Quốc
ngữ có tên tiếng Việt là cha Đắc Lộ.” Nếu dùng những từ khóa này tìm kiếm trên
Google, ta được hàng vạn trang viết về ông. Nhưng nếu hỏi: “Mộ của ông ở đâu?” thì không có thông tin nào. Chỉ biết rằng, ông
mất ngày 5/11/1660 ở thành phố Isfahan – Nước Cộng hòa Hồi giáo Iran ngày nay.
Hành trình đi tìm mộ cha Đắc Lộ được khởi đầu từ những thông tin ít ỏi như
thế. “Không có thông tin nào?” Thật ra đã có nhiều thông tin nhưng
chưa đến tay các vị đó thôi. Trước khi qua đời cách đây hai năm, linh mục Ts Đỗ
Quang Chính đã công phu tóm tắt lại cuộc đời của linh mục Alexandre de Rhodes
và bỏ thời giờ phiên dịch lá thư của linh mục Aimé Chézaud SJ sống trong Cơ sở
Dòng Tên tại Thủ đô Ispahan vào thời điểm ấy (năm 1788 dời đến Teheran cho đến
ngày nay). Cả một núi thông tin về những ngày cuối đời và việc an táng vị
tông đồ Đàng Trong và Đàng Ngoài thế kỷ 17.
Từ nửa thế kỷ nay, rất nhiều sách báo viết về
Alexandre de Rhodes: khen có, chỉ trích cũng có. Họ tìm hiểu, giải thích từ
nguồn gốc gia tộc ông đến những hoạt động truyền giáo, những cách “hội nhập văn
hóa” và công trình chữ quốc ngữ của ông. Tuy nhiên, hình như chưa ai công bố
trên sách báo về những giờ phút cuối cùng cuộc đời ông dựa theo các tư liệu
lịch sử. May mắn cho chúng tôi, vì cách đây 30 năm, chúng tôi đã vô cùng
sung sướng nhận được một tư liệu viết tay này 11.11.1660 do Amé Chezaud tường
thuật về cái chết của ông.
Amé Chézaud, như bạn đọc sẽ thấy dưới đây,
người sống cùng một nhà, cùng ăn một mâm, cùng hoạt động truyền giáo với
Alexandre de Rhodes tại Ispahan, thủ đô Ba Tư thời đó; hơn nữa, Chézaud còn ở
bên cạnh Rhodes trong suốt cơn bệnh cuối cùng, vào chính giờ phút Rhodes tắt
thở và tổ chức lễ tang cho ông. Tư liệu này Chézaud viết đúng 6 ngày sau
khi Rhodes nhắm mắt lìa đời, nên có thể tin vào những gì ông thuật lại là có
thật. Bạn đọc sẽ thấy sau đây cách diễn tả của Chézaud, người bạn của kẻ qua
đời, có thể đặt vào bản tường thuật những tình cảm và lối suy diễn của riêng
ông.
Dù sao đi nữa, thiết tưởng đây cũng là một tư
liệu đáng trân trọng đối với những người quan tâm nghiên cứu về Alexandre de
Rhodes. Riêng chúng tôi, sau khi được đọc tư liệu này, chúng tôi có được cái
nhìn rộng rãi hơn về nhà truyền giáo số 1 ở Việt Nam thế kỷ 17, về người đã
đóng góp rất nhiều cho công trình sáng tạo chữ quốc ngữ, hơn nữa là người cho
xuất bản 3 sách chữ quốc ngữ đầu tiên. Bởi những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn
giới thiệu cùng bạn đọc.
I. Alexandre de Rhodes! Ông là ai? Tuy
bạn đọc đều biết Alexandre de Rhodes là ai, có liên hệ gì với Giáo hội và xã
hội Việt Nam, nhưng thiết tưởng cũng nên nhắc lại cuộc đời của ông trên vài
trang giấy, sau đó mới bàn đến những ngày cuối đời của ông trên dương
thế. Cũng xin bạn đọc lưu ý: Trong tập này chúng tôi xin viết đúng tên
Alexandre de Rhodes, hoặc viết ngắn gọn hơn là Rhodes, nhưng không dùng tên Đắc
Lộ là tên người ta mới “đặt” cho ông từ 29-5-1941.
1. Thanh thiếu niên một nơi, thành nhân một
chốn. Gốc gác Do Thái hay Pháp, Tây Ban Nha? Trước đây, người ta cho rằng
Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái, từ lâu đời có mặt tại Tây Ban Nha, xứ Aragon,
miền Calatayud. Bốn năm gần đây, một linh mục Xuân Bích người Pháp, Michel
Barnouin (tên Việt là Sơn) công bố một tài liệu về dòng họ Alexandre de Rhodes,
nhận định rằng, không có dấu chỉ Rhodes thuộc dòng dõi Do Thái như người ta
tưởng (de Rhodes ne laisse percevoir aucun véritable indice de judaité). [1] Hãy
cứ tạm nhận cho Rhodes có nguồn gốc Do Thái, vì vậy Cụ Tổ của ông ở
Tây Ban Nha bị trục xuất cùng với 300.000 người Do Thái trong đợt 31-3-1492 vì
chính quyền nước này kỳ thị người Do Thái. [2] Bỏ Calatayud đi đâu? Cụ tổ của
Alexandre, Jean Chimenes de Rhodes (ghi trong bản di chúc năm 1497 bằng tên
này), tức Jean de Rhodes, phải khăn gói chạy về Avignon, nơi gặp gỡ, hội tụ cho
nhiều dân tộc, ngôn ngữ; đó là thành phố đã được Tòa thánh Roma mua lại trước
đó 144 năm. Từ đấy Avignon là đất của Tòa thánh; chỉ đến năm 1791, Avignon mới
trở thành đất của Pháp hoàn toàn. Sinh 15-3-1593, thuộc giáo xứ thánh
Madalena tại Avignon (từ năm 1960, Torralba chứng minh năm sinh 1591 của A. de Rhodes
là sai), A. de Rhodes cũng như những người trong gia đình sống tại Avignon, là
công dân dưới quyền Đức thánh cha, mang quốc tịch Tòa thánh, mặc dù ông nói
tiếng Provencale và tiếng Pháp. Thân sinh của Alexandre là Bernardin II de
Rhodes, một quan chức giàu có, mang tước vị Ecuyer d’Avigon, kết hôn với
Francoise de Raphaelis ngày 10-9-1590, anh của ông là Jean (1591-1621), tiến sĩ
luật học; em trai là Georges (1597-1661) tu trong Dòng Tên, nhiều năm làm giáo
sư thần học; ngoài ra còn 5 em ruột nữa: Gabrielle, Laure, Suzanne, Francois,
và em út là Hélène sinh năm 1607. [3]
Bảy tuổi, Alexandre cắp sách đến trường Trung
Tiểu học Avignon dưới quyền điều khiển của các linh mục Dòng Tên (Collège
d’Avignon), theo học trường này từ năm 1600-1612. Theo chương trình học (Ratio
Studiorum) của Dòng Tên được chính thức thi hành từ 8-1-1599, gồm 3
cấp: Tiểu học: tức cấp 1 (Petit Collège) tính từ dưới đi lên gồm các lớp
5, 4, 3, 2, 1, tuổi từ 7-13: Các lớp tiểu học 5, 4, 3 học ngữ pháp La văn, Hi
Lạp, tập nói và viết cho đúng; về La văn theo Cicero, còn Hi Lạp theo tác giả
Ovide, Catulle, Tibulle, Properce, Virgile. Lớp 2 (Humanités), tuổi 10 và 11,
nhằm trau dồi văn chương, thi văn La ngữ, Hi Lạp; về La văn theo các tác giả
César, Tite-Live, Quinte-Curce, Horace, còn về Hi Lạp theo Esope, thánh
Chrysotome, các thư của Platon, Synésios, và Iliade của Aristophane. Lớp 1
(Rhétorique), tuổi 12 và 13, nhằm trau chuốt văn chương Hi-La trong khi nói
cũng như viết, đồng thời học Sử Địa, Luân lý tổng quát; về La văn theo
Cicero (Partitiones, Do oratore v.v…); về Hi Lạp theo Quintilien, Tite-Live,
Hésiode, Homère, Pindare-Démosthène. Bậc Tiểu học có khi thêm lớp 6, cũng vào
lứa 7 tuổi. Trung học: tức là cấp 2 (Moyen Collège, Cycle des Arts), tuổi
từ 14-16; bắt đầu học Triết trong hai môn Siêu hình học và Luận lý học theo
Aristote và Platon; về khoa học gồm Vật lý, Vạnvật học, Thiên văn, Toán
học theo các tác phẩm của Aristote, Euclide, Sacro Bosco, Oronce Finé, các lý
thuyết về các hành tinh của Peurbach, lượng giác học của Regiomontanus (cũng
gọi là Johann Muller). Trong bậc này, các tu sĩ Dòng Tên (nếu khấn lần đầu độ
tuổi này) học 3 năm, học sinh giáo dân 2 năm. Việc lên lớp Tiểu và Trung
học không theo năm học, nhưng theo khả năng. Cao đẳng, hay cấp 3 (Grand
Collège), đây là cấp Đại học, phải học đủ 4 năm chuyên về Thần học. Thường là
do một Ban giám đốc riêng biệt điều khiển, trường cũng được đặt xa hai trường
Trung Tiểu học; còn Trung Tiểu học thường có một Ban giám đốc chung. [4]
Vậy, Rhodes học ở Collège d’Avignon được hiểu
là Trung Tiểu học, từ năm 1600-1612, tức 12 năm, lúc đó Rhodes được 19 tuổi.
Nhờ học với các cha Dòng Tên, nên ơn gọi tu Dòng Tên của Rhodes được định hình
dễ dàng hơn. Nhưng Rhodes lại không xin gia nhập Dòng Tên tại Lyon, nơi có Nhà
Tập, ngay phía Bắc Avignon; trái lại cậu thanh niên lại cất công đến Roma để
xin vào Nhà Tập tại đây. Ngôi Nhà Tập mang thánh hiệu Anrê này, đã cung
cấp cho Dòng Tên bao nhiêu nhân vật lỗi lạc về nhiều mặt.
Tại sao phải sang tận Roma? – Chẳng phải vì
ham cái Roma cổ kính, nhưng chỉ vì khi gia nhập Tỉnh Dòng Tên Roma, sẽ dễ dàng
được vua Bồ Đào Nha chấp thuận cho ông đi truyền giáo ở xứ Mặt trời hơn, là xứ
cũng thuộc quyền vua Bồ Đào Nha theo chế độ bảo trợ (padoado
Portugues). Chính thức vào Nhà Tập ngày 14-4-1612, tuổi 19; hai năm sau,
theo Hiến pháp Dòng Tên, Rhodes được khấn lần đầu ngày 15-4-1614. Tuy mới chỉ
là “con nít” xét về thời gian tu trì, ấy vậy mà đã “cả gan” trong chính ngày
khấn lần đầu, viết đờn chỉ gồm 20 dòng chữ bằng Ý văn, xin cha Bề trên Cả
Claudius Aquaviva cho đi truyền giáo nơi xa xôi. Chưa được như ý xin; thế là
thầy Rhodes của chúng ta bắt đầu năm thứ nhất Thần học tại Collège Romain, chứ
chẳng phải ở Áo Môn hay ở Goa (nếu được chấp thuận cho đi truyền giáo ở Đông Á
hay Nam Á). Thử “thời vận” một lần nữa xem thế nào: ngày 15-5-1617, cuối năm
Thần học thứ ba, Rhodes viết một đơn khác bằng La văn chứ không bằng Ý văn như
đơn viết năm 1614, nhưng vắn hơn hai dòng chữ, đệ lên cha Bề trên Cả Mutio
Vitelleschi. Lần này, Rhodes ghi rõ: nhất là từ hai năm nay, con cảm thấy được
lôi cuốn bởi lòng ao ước lớn lao vì phần rỗi người Nhật, Trung Hoa hay bất cứ
người lương dân nào. Vẫn bặt vô âm tín! Cha Bề trên Cả chẳng nói chẳng rằng.
Đánh bạo một phen nữa: vào mùa thu 1617, tức là khoảng tháng 10, đầu năm Thần
học thứ bốn của Rhodes, thầy phóng tay viết một hơi 67 dòng chữ bằng La văn
trên hai trang giấy khổ lớn như khổ giấy A4 ngày nay. Lời lẽ rất tha thiết, ý
tưởng vững chắc, thật mạnh mẽ hùng hồn! Mấy dòng cuối lá đơn, thầy càng như
muốn “lên giọng” thuyết phục cha Bề trên Cả hơn, khi đem ra những lý do có tính
cách tôn giáo, học vấn, sức khoẻ và xã hội chính trị: con chẳng nghĩ tưởng rằng
sinh quán của con có thể gây trở ngại hơn cho việc con đến vùng Ấn Độ, vì con
là người Avignon, nên con là công dân của Đức thánh cha, con cũng có sức khoẻ,
và con đang bắt đầu vào tuổi 25, con đang theo thần học năm IV. [5]
Chờ đợi. Cứ đợi chờ và cầu
nguyện! Rhodes vừa thụ phong linh mục xong, thì, đùng một cái, chính trong
ngày lễ Phục sinh năm 1618, cha Bề trên Cả Vitelleschi gọi vị tân linh mục nhà
ta sang Trụ sở của ngài, nói cho biết ngài chấp thuận cho đi Nhật Bản truyền bá
Tin Mừng như ý nguyện. Vui quá là vui! Từ đây, Rhodes dành ra 6 tháng liền chăm
chú học Toán học và Thiên văn như khi miệt mài theo khoa Thần học, hầu để thu
phục nhân tâm làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa.
2. Đông – Tây xa cách mọi
mặt. Các nhà truyền giáo thời ấy muốn đi từ Châu Âu qua Đông Á, trừ
Philippin, thường phải theo ngả Lisbõa, để từ đó tàu vua Bồ sẽ chở đi. Cuối
tháng 1-1619 Rhodes tới thủ đô Lisbõa, sau khi rời bỏ Roma từ cuối năm 1618,
ghé qua Avignon thăm gia đình. Ngày 4-4-1619 nhà truyền giáo lên tàu từ thủ đô
Bồ Đào Nha, tới hải cảng Goa 9-10-1619. Vì xứ Anh đào đang cấm đạo nghiêm ngặt,
bề trên Dòng Tên ở Goa tạm giữ ông lại hơn 2 năm trời, mãi đến 22-4-1622 Rhodes
mới lên tàu từ Goa, tới Malacca 28-7-1622, nhưng rồi phải đến ngày 29-5-1623
Rhodes mới có mặt tại Áo Môn, chờ đi Nhật Bản. Tại đây, cũng như ở Goa từ
1619-1622, dù Rhodes chưa chính thức hoạt động truyền giáo, nhưng đã tỏ ra là
nhà thừa sai năng động, nhiệt tình, dám nói dám làm, đặc biệt trong phương diện
hội nhập văn hóa. [6]
3. Còn hơn cả những gì mong đợi. Cuộc
cấm đạo ở Nhật do Tướng quân Phong Thần Tú Cát khởi đầu từ 1587, rồi đến Tướng
quân Đức Xuyên Tú Trung năm 1614, làm cho Giáo hội non trẻ ở đây tàn lụi dần.
Giữa lúc ấy thì ở Đàng Trong xem ra việc truyền bá Tin Mừng khá thành công; do
đó Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn gửi Rhodes đến xứ chúa Nguyễn Phước Nguyên thời
ấy. Thế là cuối năm 1624 (hoặc đầu năm 1625) Rhodes có mặt tại Thành Chiêm
(Thanh Chiêm, Kẻ Chăm) cách Hội An về phía Tây chừng 4km, để học tiếng Việt với
linh mục Francisco de Pina, một tu sĩ Dòng Tên đầu tiên thời điểm ấy thông thạo
tiếng Việt nhất. Xem ra từ cuối năm 1624 đến tháng 6-1626, Rhodes được Bề
trên cho ở Đàng Trong với mục đích chính là học tiếng Việt và làm quen dần với
con người và xã hội Việt, để rồi tung ông ra Đàng Ngoài. Vì vậy, theo các tài
liệu của Rhodes, thì hơn một năm ở xứ Trầm hương Yến sào, Rhodes chỉ có một lần
theo Francisco de Pina ra Huế, khi Pina làm bí tích rửa tội cho bà Minh Đức
Vương thái phi vào năm 1625. Cũng chẳng thấy Rhodes nói đến các công việc
khác. Để chuẩn bị cho sứ vụ ở Đàng Ngoài, Rhodes phải về Áo Môn đã, không
thể trực tiếp từ xứ chúa Nguyễn vào xứ của chúa Trịnh được, vì hai nhà cầm quyền
đang thù nghịch nhau dữ dội.
Tháng 6-1626, Rhodes cùng với Lm Pedro
Marques bỏ Đàng Trong về Áo Môn chờ gió mùa sang năm sẽ vào đất chúa Trịnh.
Vâng, ngày 12-3-1627, Rhodes và Marques lên tàu từ Áo Môn, chỉ một tuần sau,
ngày 19-3-1627, tàu tới bờ biển cửa Bạng tại Thanh Hóa. Lắm sáng kiến, lại nói
tiếng Việt ngon lành, Rhodes đã chinh phục lòng người ở vùng cửa Bạng khá dễ
dàng. Chẳng thế mà chỉ trong 2 tuần ở đây, ông đã làm cho 32 người tin vào Đức
Kitô. Tại An Vực và Vân No, tức tỉnh lỵ Thanh Hóa ngày nay, dù chỉ ở tạm chừng
2 tháng, cũng có đến 200 người được rửa tội. Ngày 2-7-1627, hai nhà thừa sai
được tận mắt nhìn thấy Thăng Long, kinh thành ngàn năm văn vật. Lúc đầu các ông
được chúa Trịnh Tráng rất quý mến, ra lệnh dựng nhà cho hai ông ở (có lẽ sát
với đền Bà Kiệu cạnh hồ Hoàn Kiếm). Nhờ đó, uy tín hai ông càng lớn. Chẳng
những giới bình dân mà cả giới trí thức, quan lại và một số vị Sư ở Cầu Giấy
cũng đến với Rhodes, người được gọi là Tiến sĩ Tây phương. Nhưng chỉ mấy tháng
sau, người ta tung tin hai ông Tiến sĩ Tây phương là gián điệp của chúa Nguyễn
tung ra Đàng Ngoài, là kẻ làm bùa phép (khi làm các Bí Tích), là kẻ phá hoại
đất nước, thuần phong mỹ tục của xã hội, vì rao truyền đạo giáo mới lạ, kỳ cục,
lại chỉ cho phép người ta được lấy có mỗi một vợ!
Thế là những chuỗi ngày “xui xẻo” ập đến:
28-5-1628 hai cha bị quản thúc tại chính ngôi nhà do chúa Trịnh cung cấp; 10
tháng sau, 3-1629, hai vị bị chúa Trịnh ra lệnh đưa xuống Bố Chính. Nhưng hai
cha cứ từ từ lần mò lên tới Vinh, rồi cơ hội đến, hai cha theo tàu Bồ Đào Nha
lại lên Thăng Long. Rốt cuộc, tháng 5-1630, hai cha bị chúa Trịnh trục xuất
hoàn toàn khỏi xứ. Tuy ở Đàng Ngoài hơn 3 năm, nhưng tính ra chỉ hơn một
năm đầu là được tự do. Vậy mà tổng cộng số người được rửa tội lên đến 5.602, chưa
kể Rhodes đã lập được tu hội Thầy giảng, mà ba vị đầu tiên tuyên khấn đều là ba
nhà Sư: Phanxicô Đức, Anrê Tri, Inhaxiô Nhuận. Về Áo Môn, Rhodes “bị chỉ
định” làm Giáo sư Thần học tại Học viện Madre de Deus, điều mà ông không cảm
thấy thích thú, chỉ làm vì đức vâng phục. Trong 10 năm trời, 1630-1640, Rhodes
ở Áo Môn làm “cái nghề” tay trái ấy, nhưng vẫn hoàn toàn đặt mình trong sự quan
phòng yêu thương của Thiên Chúa. Đúng là ông giống như chiếc gậy trong tay ông
già.
4. Đùa với tử thần. Năm 1639 tất cả 6
Giêsu hữu bị chính quyền đuổi khỏi Đàng Trong. Với tình hình này, Bề trên phải
tìm một người trước đây đã quen thuộc với xã hội Đàng Trong để can đảm và mau
lẹ ứng xử với mọi tình huống về mặt tôn giáo. Ai đây? Phải chọn Rhodes thôi,
lúc này cha vừa đúng 47 tuổi.
Từ năm 1640-1645, Rhodes ở Đàng Trong, đôi
khi có vài anh em đến trợ lực n hư cha Alberto và Mattos ở được vài tháng.
Trong thực tế, Rhodes như “kẻ một mình một chợ” trong suốt thời gian trên, tha
hồ mà sáng kiến, tha hồ mà chống chọi, tâm hồn thì rất an hòa thư thái, nhưng
thân xác thì rong ruổi khắp Đàng Trong, khi trên bộ lúc dưới thuyền, sống chết
lúc nào không hay. Hai lần bị bắt, một lần bị chính chúa Nguyễn Phước Lan lên
án tử hình, nhưng rồi nhờ có vị Thái sư can gián, nên đổi ra án trục xuất khỏi
xứ sở, nếu còn đến Đàng Trong lần nữa sẽ bị tiền trảm hậu tấu. Tổng cộng
trong giai đoạn này, 4 lần đi về giữa Áo Môn-Đàng Trong thật là cực khổ; mỗi
lần tạm rút lui khỏi Đàng Trong cũng có nghĩa như bị chính quyền hoàn toàn trục
xuất khỏi đây. Thời gian những lần đi về: Tháng 2-1640 đến tháng
8-1640; Tháng 12-1640 đến tháng 7-1641; Tháng 1-1642 đến tháng
7-1643; Tháng 1-1644 đến tháng 7-1645.
5. Bao la mà vẫn chật chội Rhodes phải
rời bỏ Đàng Trong ngày 3-7-1645 (nơi khác Rhodes lại ghi là ngày 9-7-1645), [7]
mang theo di tích thánh là sọ của thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử ở
Thành Chiêm ngày 26-7-1644 chính Rhodes chứng nhận tận mắt. Từ đó trở đi không
bao giờ Rhodes đến nứơc Đại Việt này nữa.
Theo lời yêu cầu của Bề trên Dòng Tên ở Áo
Môn, ngày 20-12-1645 Rhodes đáp tàu về Roma, để trình bày với Bề trên Cả Dòng
Tên về tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt
Nam. Đường về Roma đối với Rhodes còn nguy hiểm gian nan hơn cả những chuyến
vượt biển trước đây, bởi vừa lâu dài, vừa bị người Hà Lan bắt giam, gần 3 tháng
ở Jakarta vì dám dâng Thánh lễ ở đây là nơi do người Hà Lan theo đạo Tin Lành
cai quản. Ngày 27-6-1649 mới “vác xác” về tới “Kinh thành muôn thuở” sau một
cuộc hành trình 3 năm 6 tháng! Bận việc quá! Tại Roma, nhà truyền giáo số
1 ở Việt Nam vừa phải lo xuất bản 5 cuốn sách để nói cho Giáo hội Châu Âu biết
về Giáo hội Việt, về thành quả chữ quốc ngữ, lại phải vận động chạy ngược chạy
xuôi, đến cả xứ Piémont, Thuỵ Sĩ để tìm mấy ứng viên giám mục cho xứ Con Rồng Cháu
Tiên theo ý Tòa thánh. In sách thì được rồi, nhưng chẳng ai muốn đi làm giám
mục ở nơi xa xôi hẻo lánh quá là khác lạ với Châu Âu. Được sự chấp thuận
của Thánh bộ Truyền giáo, Rhodes trở sang Pháp, đi tìm ứng viên giám mục. Cuối
năm 1652, Rhodes bỏ Roma về Lyon, lên Paris thực hiện cho được mục đích. May
quá, trong nhóm Bạn hiền (Bons Amis), ba linh mục trẻ có đủ khả năng, sẵn sàng
đi làm giám mục ở đất Việt. Nhưng, khốn thay, chính Đức thánh cha Innocens
XI lúc đó lại không muốn cho người Pháp giữ trọng trách này, còn vua Bồ Đào Nha
thì cực lực phản đối, lại còn dọa, nếu Tòa thánh cử người Pháp vào sứ vụ này,
đế quốc rộng lớn Bồ Đào Nha sẽ không vâng phục Tòa Thánh nữa. Sợ! Đức thánh cha
liền yêu cầu cha Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel chuyển Rhodes đi khỏi
Pháp.
6. Mênh mông nước Ba Tư. Phải vâng lời
Đức thánh cha ngay lập tức, không trì hoãn một giây. Cha Bề trên Cả thì đương
nhiên rồi; còn Rhodes cũng thế, vì ông đã khấn trọng 4 lời Khấn trước năm 1635.
Đức vâng phục của linh mục Dòng Tên này thật tuyệt vời, cha Amé Chézaud đã viết
như thế trong bức thư đưa tin cha Rhodes qua đời. Cũng về đức vâng phục,
Chézaud viết trong bức thư trên: “Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm
tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai
muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều
đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời […]. Ai đã biết
cha nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này […]. Tôi chắc chắn rằng
những ai trong anh em chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài,
có thể còn nói nhiều chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường
thuật này; điều đó lại chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu
chốt của mọi thứ dệt nên đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống
như cây gậy của ông già, chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục,
nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức
như cha còn có ý chí hơn cả cây gậy”. Đưa cha Rhodes đi làm việc ở đâu bây
giờ? Chẳng rõ cha G.Nickel có phải nát óc vì vụ này không. Chỉ biết, Bề trên Cả
không trả Rhodes trở lại cho Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản, lại cũng chẳng phái đi một
nơi nào dễ dàng cho ông hơn, nhưng “tống ngay đi” một vùng chẳng thuận tiện: Ba
Tư! Ôi, cái vương quốc huyền bí một ngàn một đêm lẻ! Toàn là Hồi giáo (hiện nay
nước Iran – trứơc đây gọi là Ba Tư – rộng 1.650.000 km2, dân số 56 triệu, nhưng
chỉ có 13.000 người Công giáo, ngoài ra 93% theo Hồi giáo phái Si-it). Đi
Ba Tư, nhưng ở tại đâu? Thưa ở tại Ispahan (Asfahan), thủ đô của Ba Tư thời ấy,
phía Nam Téhéran ngày nay (từ năm 1788, Ba Tư dời thủ đô từ Ispahan lên
Téhéran).
Ngày 16-11-1654, Rhodes lên tàu từ cảng
Marseille để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11-12-1654
tới Seyde thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến
1-11-1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan. Thật ra, đối với con người xứ
Avignon này, thì Ispahan cũng chẳng lạ lẫm gì, bởi vì trong chuyến đi từ Áo Môn
về Roma, Rhodes đã ngừng tại Ispahan 2 tháng rưỡi kể từ ngày 13-4-1648 đến
28-6. Tại Ispahan có một cộng đoàn Dòng Tên, gồm Rhodes là bề trên và cha
Chézaud cùng tu huynh Berthe. Vương quốc Ba Tư rộng lớn mênh mông, nhưng
đối với Rhodes cũng như các thừa sai khác (Augustinô, Capuxinô…) vẫn chật chội,
bởi lẽ dân chúng toàn là Hồi giáo, giảng đạo ai chịu nghe, làm sao cho người
Hồi giáo chân nhận Đức Giêsu Kitô chẳng những là ngôn sứ của Thiên Chúa mà còn
là Thiên Chúa thật. Gì gì đi nữa nhà thừa sai của chúng ta cũng phải học tiếng
Ba Tư đã. Sáu mươi hai tuổi rồi, dù Rhodes có tài về ngôn ngữ cũng chẳng phải
như khi học tiếng Bồ, tiếng Việt. Về vấn đề học ngôn ngữ Ba Tư, trong thư
Rhodes gửi cho người em ruột là linh mục Dòng Tên Georges, ngày 20-5-1658: từ
khi anh đến ở xứ này, Chúa đã ban ơn cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết tạm
đủ để giảng thuyết.
Đọc bức thư của Amé Chézaud, chúng ta thấy
cuộc truyền giảng Tin Mừng của Rhodes ở Ba Tư chẳng thu lượm được mấy kết quả: “Tính dịu dàng của cha [Rhodes] đã làm cha
luôn ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục,
khinh bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như
thế, đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời
chúc lành.”
Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng
chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy
khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế
nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể
diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong những
dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút nào,
hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem ra
cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là mình
đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra không
hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ do
thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng”. Sánh với cuộc
thành công của Rhodes ở Việt Nam trước đó, thì Ba Tư chẳng có là bao, nếu không
nói là thất bại. Chẳng riêng gì Rhodes, mà các nhà thừa sai ở xứ này cũng thế
thôi. Chính Rhodes chẳng ghi lại gì đáng kể trong 5 năm 4 ngày ông ở Ba Tư. Quá
là chênh lệch giữa xứ một ngàn một đêm lẻ với xứ Con Rồng Cháu Tiên!
Ngày 5 tháng 11 năm 1660, Alexandre de
Rhodes, nhà thừa sai của chúng ta qua đời tại Ispahan, thọ 67 tuổi. Liền
đây, chúng tôi xin trình bày bức thư của cha Amé Chézaud, thuật lại lúc cha
Rhodes bệnh nặng rồi qua đời. Đó là mục đích của tập này.
II. THƯ BÁO TIN ALEXANDRE DE RHODES QUA ĐỜI
1. Vài điều cần lưu ý. Chính bức thư do
cha Amé Chézaud viết trong 3 trang giấy khổ 20cm60 x 29cm50, chữ viết nhỏ li
ti, văn dài lê thê, nhiều chỗ chấm câu không rõ ràng, lại là thứ tiếng Pháp thế
kỷ 17. Chính vì vậy, khi phiên dịch sang tiếng Việt, chúng tôi không thể dịch
theo nghĩa từng chữ; đàng khác cũng không thể chấm câu hoàn toàn như nguyên
bản. Chắc chắn trong bản dịch này có nhiều khiếm khuyết, mong bạn đọc chỉ giáo.
2. Tờ thứ nhất của bức thư. Tờ thứ nhất
của bức thư là tờ giấy trên đó viết mấy dòng chữ, đề tên, địa chỉ người nhận và
tên cùng địa chỉ của người mà tác giả muốn nhờ ông chuyển cho người nhận thư.
Chúng tôi tạm coi tờ giấy này như một bao thư, dù không mang hình thức bao thư,
không dán kín. Sau đó sang tờ thứ hai trở đi mới chính thức là bức thư. Vậy
chúng tôi xin mô tả chi tiết hơn mấy dòng chữ tờ thứ nhất của bức thư
này. Trên cùng trang giấy của tờ thứ nhất, có ba loại nét chữ khác nhau,
chứng tỏ do ba người viết: Amé Chézaud và hai người khác.
a. Trước hết là nét chữ của chính tác giả bức
thư, cha Amé Chézaud: Gửi cha đáng kính / Jacques Renault / Giám tỉnh Dòng
Tên Pháp / tại Parys. (A Mon Reuer, Pere / Le P.Jacques Renault Pro = /
uincial de france de la Compagnie / de Jesus / a Parys). Nhờ cha đáng kinh
Georges / de Rhodes cũng thuộc Dòng Tên / tại Lyon. (Rẽcommandee au
R.P.Georges / de Rhodes de la mesme Compie / a Lyon.
b. Tiếp đến là chữ một người khác viết bằng
La ngữ, nhưng chúng tôi không biết của ai; chỉ phỏng đoán của người làm việc ở
Kho lưu trữ; Cha Alessander de / Rodes / qua đời / tại Aspan tháng
11/1660. (Obiit / P. Alessander de / Rodes Aspani nouẽ / 1660)
c. Sau cùng nét chữ của người thứ ba, trên
cùng trang giấy; chúng tôi cũng không biết do ai viết: Thư này được viết /
do chính tay / cha Aymé Chezaud. (Cette lettre est escrite / de la propre
main / du P.Aymé Chezaud). Để bạn đọc hiểu biết rộng hơn, chúng tôi xin
ghi lại tiểu sử hai nhân vật mà chúng tôi có tư liệu: Amé Chézaud và Georges de
Rhodes: Amé Chézaud (1604-1664); chính cha Chézaud ký tên Amé Chézaud trên
bức thư cha viết tại Ispahan ngày 11-11-1660, đưa tin cha A.de.Rhodes qua đời;
có người lại viết tên cha là Aymé Chezaud; còn cha Joseph Déhergne viết là Aimé
Chézaud. Cha Chézaud sinh năm 1604 tại Lyon; giai nhập Dòng Tên tại Avignon
22-9-1627; khấn trọng tại nhà thờ thánh Giacôbê của Dòng Tên tại Marseille ngày
7-6-1637. Năm 1639 Chézaud đi truyền giáo tại Syria; năm 1652 cha lập cư sở
(residentia) Dòng Tên tại Julfa gần Ispahan; khi cha Alexandre de Rhodes đến
Ispahan làm bề trên cộng đoàn Dòng Tên ở đây, thì (có lẽ) chuyển cộng đoàn ở
Julfa vào Ispahan. Từ khi Alexandre de Rhodes có mặt tại Ispahan, 1655, cho đến
khi qua đời, 1660, Chézaud luôn ở với cha, trừ khoảng 11 tháng, 1658-1659,
Chézaud theo lời yêu cầu của Alexandre de Rhodes, đi đường bộ theo ngả
Khorassan đến vùng Tartarie truyền giáo. Không thành công, Chézaud lại trở về
Ispahan khoảng cuối năm 1659 đầu 1660. Chézaud qua đời tại Ispahan ngày
14-9-1664 [8]. Georges de Rhodes (1597-1661), sinh tại Avignon 28-12-1597;
là em ruột của cha Alexandre de Rhodes; gia nhập Dòng Tên tại Avignon
16-10-1613; qua đời tại Lyon 17-5-1661. Khác với anh mình là Alexandre, quãng
đời của Georges quanh quẩn trong vùng Avignon và Lyon. Có lẽ chưa bao giờ
Georges ra khỏi nước Pháp, chứ đừng nói đến việc đi tới những miền đất xa lạ ở
châu Á như Alexandre. Xem ra hoạt động của Georges tập trung vào việc dạy học
nhiều hơn; vì trong gần 25 năm trời cha dạy học ở trường Trinité và
Notre-Dame-du-Bon-Secours là hai trường của Dòng Tên tại Lyon. Các môn Georges
giảng dạy: Nhân văn (Humanités): 3 năm; Văn chương (Rhétorique): 2 năm; Triết
học: 6 năm; Tín lý: 11 năm; Luân lý: 2 năm. Những năm cuối đời, Georges làm
Viện trưởng Notre-Dame-du-Bon-Secours. Georges viết những bộ sách lớn bằng La
ngữ, được ấn hành vào các năm 1661, 1664 và 1671: Disputationum Theologiae scholasticae
in quibus Deus, angelus, homo, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon
1661, in-fol, 692tr. Disputationum Theologiae scholasticae in quibus
Christus, Deipara, Sacramenta, sex Tractatibus explicantur. Tomus prior, Lyon
1661, in-fol, 680tr. Philosophia peripatetica, ad veram Aristotelis mentem.
Libris quatuor digesta & disputata, pharus ad Theologiam scholasticam, Lyon
1671, in-fol, 704tr.
3. Bức thư phiên dịch sang tiếng Việt từ nguyên bản Pháp ngữ, kèm theo chú
thích: Thư Luân lưu [9] về cha Alexandre de Rhodes qua đời. Thư cha
đáng kính. Bình an của Đức Kitô. [10]
Xin báo tin cha hay, cha Alexandre de Rhodes
đã qua đời tại đây vào ngày 5 tháng mười một, sau một cơn bệnh lâu dài và lên
xuống thất thường. Bởi vì bệnh sưng bụng làm cha yếu mệt hầu như trọn tháng
chín, tiếp đến là bệnh nhức buốt tai hại làm cha đôi khi không dâng Thánh lễ
được (điều này còn gây đau đớn cho cha hơn là cơn bệnh). Tình trạng trên kéo
dài đến giữa tháng mười, mà chẳng có phương thuốc nào giúp cha dễ chịu hơn.
Từ đó, cha phải nằm liệt giường, không còn
dâng Thánh lễ được, vì cha còn bị rơi vào một thứ bệnh rỉ máu mà như người ta
xét đoán do ung nhọt trong ruột. Chứng rỉ máu hay xảy ra, đã chẳng cho cha nghỉ
yên chút nào ngày cũng như đêm. Những cơn khó chịu ấy kèm theo sự chán ngấy,
đúng hơn là ăn chẳng biết ngon, rồi đến đau lá lách. Người ta đã chữa cha bằng
mọi thứ thuốc mà người ta đoán phải có lợi cho cha, nhưng tất cả những thứ bệnh
ấy chẳng chịu một loại thuốc nào. Rõ ràng là sức khoẻ của cha rất tàn tạ, suy
nhược. Tuy nhiền nhờ tim cha còn tốt, nên ngay những ngày cuối cùng của cơn
bệnh, chúng tôi thấy cha ít khi lên cơn sốt. Hy vọng những thứ bệnh đang tấn
công cha, sẽ không thể làm cha chết vào chiều thứ sáu 5 giờ trước khi cha tắt
thở. Vì lúc đó dường như sức khoẻ tốt hơn, nên cha dùng bữa theo thường lệ. đến
bốn hoặc 5 giờ sau, nhờ ơn Chúa, cha chịu phép Bí tích rồi linh hồn về với Chúa
cách nhẹ nhàng và thánh thiện. Tôi muốn nói mà không thêm bớt chút nào, đó là
cha đã kết thúc cuộc đời như ngọn nến tàn dần.
Theo tôi, đã từ lâu chẳng những cha ước ao,
mà còn dự đoán và biết trước thời điểm định mệnh đó. Vì từ khi tu huynh Georges
Berthe [11] và tôi trở lại đây, đến nay được một năm, thì cha đã nói với chúng
tôi, cha tin tưởng rằng Chúa đã cho phép chúng tôi trở về để giúp cha trong giờ
chết, kẻ giúp về phần thiêng liêng, người về phần xác. Từ đó cha chuẩn bị chết
bằng cuộc linh thao thường niên với một tâm hồn sốt sắng mới mẻ, đặc biệt cha
xưng tội chung về cả cuộc sống cũng vì ý ấy. Do đó, cha dọn mình kỹ lưỡng và
lâu dài; cha xét mình và viết ra cả những chi tiết cùng hoàn cảnh lầm lỗi bé
nhỏ nhất. Bởi đấy cha chỉ có thể hoàn thành trong nhiều ngày, luôn luôn với sự
xúc động bề trong cũng như bề ngoài khi ăn năn tội, một sự xúc động lâu dài như
cuộc đời của cha; mỗi lần xưng tội là mỗi lần cha xúc động. Cha xưng tội hàng
ngày theo thói quen bao nhiêu có thể, ít nhất từ khi cha có mặt ở đây [1655].
Trong việc xưng tội, cha tìm ra chất liệu [tội] để xưng với một lương tâm kính
sợ Chúa tới mức bối rối, coi là tội những thứ không phải là tội và cha dọn mình
rất kỹ lưỡng như tôi biết, vì trong 5 năm 4 ngày [12] tôi được hân hạnh làm
người giải tội cho cha (trừ khoảng 11 tháng tôi vắng mặt). Hầu hết và có
thể nói là tất cả thư từ cha viết trong năm nay [1660] chứng tỏ rõ cha đã dự
đoán cái chết gần kề; những ai nhận được thư cha viết trước khi phát cơn bệnh,
đều có thể thấy điều đó.
Cha đã xin tôi cho cha biết khi cơn bệnh trở
nên nguy kịch, nếu người ta đoán được thực là nguy. Nhưng khi chúng tôi biết
được thì chẳng còn thuốc nào chữa nổi. Vào lúc hai giờ chiều, cha ngủ
thiếp đi mà chúng tôi lại nghĩ là tốt, vì xem ra giấc ngủ khá êm đềm và mạch
của cha lại không giống với người chữa trị đã nhận định là mạch người sắp chết.
Tuy thế tình trạng này kéo dài tới khi cha tắt thở tức là khoảng tám giờ sau.
[13]
Cha dâng Thánh Lễ cuối cùng ngày 24 tháng 10,
sau đó phải liệt giường hoàn toàn và xưng tội cùng rước Mình Thánh Chúa nhiều
lần. Chính cha ước ao được ăn năng rước Mình Thánh, nhưng vì lòng cung kính lại
không dám, bởi nghĩ mình chẳng xứng. Bệnh rỉ máu hành hạ cha hầu như đêm
ngày bất kể giờ giấc. Trạng thái yếu liệt cuối cùng này gây bất lợi cho chúng
tôi và làm cho chúng tôi mất an ủi, vì chúng tôi hy vọng qua lời chúng tôi hứa
với nhau, cha sẽ được đóng ấn cuộc đời bằng việc chịu phép Xức dầu bệnh nhân;
nhưng cơn yếu liệt ấy đã cất khỏi cha không còn dịp tỏ lòng sốt sắng bằng việc
lãnh nhận phép Xức dầu, điều mà cha đã xin từ trước.
Đó là cái chết đã xảy ra với cha vào tuổi
ngoài lục tuần bắt đầu kể từ ngày tháng năm [14] là lúc cha sinh tại Avignon;
như thế người ta có thể nói là cha là người của thế kỷ khác, do đời sống của
cha gần với đời sống các tông đồ hơn là vì số những năm cha sống.
Cha qua đời để lại cho chúng tôi nhiều nuối
tiếc và an ủi: Nuối tiếc vì mất cha, không những đối với chúng tôi, mà còn đối
với biết bao vị thừa sai rải rác trong khắp phương Đông này (Leuant) là những
nơi cha đã lay chuyển họ cách hữu hiệu và cha còn làm nhiều việc để chỉ đường
dẫn lối cho họ, tỏ ra săn sóc họ bằng tâm tình người cha, cho họ lời khuyên và
khuyến khích họ bằng lòng nhiệt tình của người cha; an ủi, vì người ta sẽ còn
tưởng nhớ đến cha lâu dài, chẳng những nhờ một số thư từ rất xây dựng mà cha đã
viết và soạn thảo do kiến thức của cha, mà còn nhờ các bản tường thuật và các
tác phẩm cha đã biên soạn để xây dựng cho mọi người. [15] Cho nên chẳng cần tôi
phải viết lại cuộc đời của cha, vì chính cha đã làm khá nhiều cho người ta biết
công trình của mình.
Nước Ý và nước Pháp là những nơi cha đã từ đó
đến đây, tỏ ra tôn kính cũng như ngưỡng mộ cha và nhiều vị cao cấp ủng hộ cha.
[16] Danh giá mà tất cả mọi người dành cho cha nói chung cũng là vì người ta
cho rằng cha có một đời sống thánh thiện. Quả thật tôi chưa thấy một ai rất
đúng mực như cha trong tất cả mọi việc cha làm. Nếu viết về các nhân đức của
cha, không biết phải bắt đầu từ nhân đức nào.
Xem ra nhân đức thứ nhất phải kể ra đây là
cha luôn hãm mình phạt xác, vì mọi ngày cha đều đánh tội trừ ngày Chúa nhật và
Lễ trọng; đó là thói quen cha hằng giữ cho đến cơn bệnh cuối cùng này. Trong
tuần lễ, có mấy ngày cha cũng mang một dây ngang thắt lưng, bện bằng sợi arrhal
có nhiều mũi nhọn, mà khi người ta tắm xác cha đã nhận ra nhiều dấu vết trên
mình. Cha kiêng thịt mọi ngày, thường chỉ ăn rau hay thứ gì giống như vậy thay
cho bữa tối.
Cùng với những hãm mình thể xác, cha còn
nhiều hãm mình nội tâm; vì khi còn khoẻ mạnh, ngày nào ch cũng thức dậy một giờ
trước những người khác để cầu nguyện (ngoài thói quen cầu nguyện theo luật Dòng
Tên).
Việc cha liên tục học hỏi đường thiêng liêng
vẫn không ngăn trở cha học tiếng Ba Tư. Để tiếp tục học được ngôn ngữ này, cha
vận dụng nhiều công sức như một chàng trai trẻ khoẻ mạnh phải làm hết mình cho
công việc đó. Muốn được tiến bộ, cha tập viết không biết mệt mỏi.
Lòng nhiệt tình của cha không phải chỉ đóng
khung trong nước Ba Tư bao lâu cha còn có mặt tại đó, mà còn mở rộng ra khắp
phương Đông. Vì vậy, dù cha chẳng đi tới vùng rộng lớn Tartarie [17] được, nơi
Dòng Tên chưa mở cuộc truyền giáo, cha lại cổ võ tôi đi tới đó, rồi phái một
tuy huynh [Georges Berthe] đi cùng với tôi, mà không giữ chúng tôi ở lại cùng
cha. Việc truyền giáo ở đó không thành công (cũng do những bất toàn của tôi).
Cha còn muốn mở cuộc truyền giáo cho người xứ Géorgie, nhưng đâu có người để
gửi đi.
Tính dịu dàng của cha đã làm cha luôn luôn
ứng xử như con chiên giữa bày sói, chịu đựng vui vẻ những lời lăng nhục, khinh
bỉ và cả gạch đá, mà bây giờ tại đây người ta quen tiếp đón chúng tôi như thế,
đáp lại phần thưởng đó là những lời như Sữa tốt lành ngọt ngào cùng lời chúc
lành.”
Để tỏ lòng nhiệt thành, cha đi khắp các làng
chung quanh tìm kiếm trẻ em bệnh hoạn, hy vọng rửa các em bằng nước thanh tẩy
khi các em gần sinh thì. Cha không sốt ruột dù thấy mình bị người lương dân chế
nhạo, cũng chẳng nản lòng bỏ cuộc kể cả đôi khi cảm thấy bị dội vì đã không thể
diễn tả cho đúng trong tiếng Ba Tư; [18] cha cũng chẳng bao giờ nản chí trong
những dịp ích lợi cho phần rỗi người lương dân, không sợ sệt, không e ngại chút
nào, hơn nữa, còn được thúc đẩy ước ao chịu chết bằng con đường đó. Đôi lúc xem
ra cha nhiệt tình quá mức (nếu cha có thể vượt qua khỏi) đến nỗi cha nghĩ là
mình đã chẳng mang lại kết quả ở đây như cha đã làm được ở nước khác. Thật ra
không hẳn là không có kết quả, cũng chẳng phải là cha nhụt nhuệ khí, nhưng chỉ
do thiếu mầm mống vì không được chuẩn bị và kém sâu lắng.”
Tất cả các Kitô hữu và nhiều lương dân tỏ
lòng rất kính phục cha, ngay cả những người không quen biết cha cũng thế, dù
chỉ thấy cha khi đi ngang qua. Nhiều người coi cha như một vị Giám chức vì cha
nghiêm trang, đĩnh đạc và khiêm tốn. Những người khác lại gọi cha là nouroni, nghĩa
là sáng rực hay đầy ánh sáng; có những kẻ gọi cha là thánh, vì ngưỡng mộ cha có
tư cách thánh.
Tôi không muốn nói đến đức vâng phục và khiêm
tốn của cha, vì nếu có nói, tôi chỉ nói được cách mập mờ. Tuy nhiên, nếu ai
muốn biết cảm nghĩ của tôi và của anh em chúng tôi về điều đó thì chúng tôi đều
đồng tâm nhất trí về điều này để nói rằng, cha thật tuyệt vời. Ai đã biết cha
nhờ sống với cha thì chẳng hồ nghi về điều này.
Lòng bác ái của cha đối với người nghèo,
người bệnh, dù là người trong nhà hay người ngoài cũng được cha đối xử như
nhau. Đối với kẻ này cha như là người cha, với kẻ khác cha như là người mẹ.
Bằng chứng là, trong khi cha bệnh, cũng có một người phục vụ trong nhà cùng nằm
bệnh với cha, đã được cha săn sóc còn hơn là săn sóc cho chính cha, vì cha
không chịu để cho anh ta thiếu thốn gì. Cha hạ mình làm những công việc thấp
hèn nhất, những việc càng khó thì cha càng tin tưởng vào Chúa. Cha theo ý Chúa
coi như ý mình, dù bất cứ sự gì xảy đến. Tính dịu dàng của cha trong khi chuyện
trò và sự hiện diện của Chúa, là hai yếu tố làm nên đức tính trên.
Đức trong sạch của cha lại không thể nào không
bằng các đức tính khác. Tôi không thấy người nào thận trọng hơn cha trong việc
gìn giữ giác quan nhất là sự nhìn xem; đối với các cuộc thăm viếng của phụ nữ,
cha tiếp đãi họ chỉ vì lòng bác ái.
Trong khi trò chuyện với người Hồi giáo, cha
tìm cách cho họ biết bao nhiều có thể về hai mầu nhiệm chính của Đức Tin chúng
ta, đó là Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Trong các lời chào hỏi của
người Hồi giáo, họ thường nói Khoda nigah darad (Thiên Chúa gìn giữ anh chị),
nhưng cha lại chào họ Hhazaret eissé hay Christus nigah darad (Đức Giêsu Kitô
gìn giữ anh chị) để họ hiểu rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. [19]
Dù định viết vắn tắt, tôi cũng không được
phép không nói gì về lòng sùng kính của cha đối với phép Thánh Thể, với Đức
Thánh Trinh Nữ, các Thiên thần và một số vị Thánh, cách riêng các Thánh trong
Dòng chúng ta, nhất là các đấng tử đạo mà cha biết mặt và cha còn ghi nhớ như
mới tinh. Khi nhớ tới các vị tử đạo trên đây, trong lòng cha pha lẫn một nỗi ưu
phiền thánh thiện, vì đã không có được giờ phút giống như các ngài, đổ máu mình
ra hay phải uống nước [20] hoặc bị treo hố [21] ở Nhật Bản như nhiều bạn bè của
cha, mà cha còn mang di tích thánh của các ngài trên mình cách rất tôn kính,
[22] và ước mong được kết thúc đời sống bằng cuộc tử đạo nếu Chúa ban ơn này
cho cha mà cha hằng khẩn thiết cầu xin. Vì tôn kính các đấng tử đạo, cha còn
lưu ý đến việc hàng ngày trong bữa ăn đọc truyện vài vị tử đạo, hoặc anh em
trong Dòng qua đời nhờ tin tức do các anh em gửi đến.
Lòng sùng kính của cha đối với Đức Mẹ Thiên
Chúa được nhận thấy mỗi khi cha nói với người tín hữu hay người lương dân. Để
tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ Thiên Chúa, hàng ngày cha còn lần hạt ngoài các việc
sùng kính khác. “Đàng khác, ngay từ khi còn nhỏ tuổi cha đã khấn hứa cách
riêng giữ đức khiết tịnh, cho nên cha không thể chịu đựng được khi người đời
nói chuyện với cha hay trước mặt cha mà nói tục. Những khi ấy cha cảnh cáo họ
cách nhẹ nhàng để họ đừng nói như thế nữa, và thường là có hiệu quả. Cha cũng
hành xử như vậy đối với những ai vì bất cẩn hay vì lý do nào khác mà buông lời
gièm pha hay làm hại danh giá người thân cận.
Tôi chắc chắn rằng những ai trong anh em
chúng tôi đã được cha cùng sống và cùng làm việc lâu dài, có thể còn nói nhiều
chi tiết đặc biệt hơn về điều sau đây trong bản tường thuật này; điều đó lại
chính là điểm cuối cùng cuộc đời cha, tỏ ra đâu là mấu chốt của mọi thứ dệt nên
đời cha. Chưa bao giờ người ta thấy một tu sĩ giống như cây gậy của ông già,
chưa thấy cha trong tất cả cơn bệnh; cha nhẫn nhục, nhạy cảm hơn cả cây gậy, vì
cha sẵn sàng ở tư thế như người ta muốn, đến mức như cha còn có ý chí hơn cả
cây gậy, chẳng tỏ ra một dấu hiệu nào là đau đớn, cũng chẳng tỏ ra khó chịu khi
phải dùng thuốc hay đồ ăn người ta trao cho. Về điều này chúng tôi phải ngưỡng
mộ cha trong bữa ăn cuối cùng, khoảng 3 hoặc 4 giờ trước khi cha trút linh hồn,
vì cha tỏ ra vâng phục y tác của cha cách lạ lùng. [23] Dù khi đó giác quan của
cha bị suy nhược, song cha chẳng quên chút nào việc làm phép và tạ ơn, hơn nữa
còn làm dấu Thánh giá theo thói quen của cha trên ly thuốc người ta trao cho
cha uống. “Liền sau đó là cơn hấp hối nhẹ nhàng, rồi cha tắt thở.
Đó là cái chết mà trước mặt Chúa còn cao quý
hơn việc chúng tôi xúc động vì mất cha. Nếu chúng tôi thường coi sự ra đi của
cha là mất mát, thì công phúc của cha làm cho chúng tôi, đúng hơn phải coi đó
là lợi ích. Chúng tôi hy vọng nói như thế mới phải, dù cha không còn hiện diện
để gầy dựng xứ truyền giáo này; chúng tôi vẫn tin một cách đạo đức như là cha
đang còn ở đây, nơi cha đã làm được nhiều việc, và cha còn hiện diện hơn nữa
tại chính nơi chúng tôi đang ở.
Vì nhiều lý do, chúng tôi không an táng cha
trong nhà chúng tôi, nhưng trong nghĩa trang chung cho các Kitô hữu, khu vực
dành cho những người Công giáo. Thứ nhất, chúng tôi chỉ có một nhà nguyện ở
tầng hai nên chẳng thể an táng cha ở đó, ngoài ra cũng chẳng còn nơi nào trong
nhà chúng tôi ở dành cho việc này được. Thứ hai, chúng tôi cũng chẳng dám chắc
mình ở nhà này lâu, vì có điều khác chắc, như chúng tôi phỏng đoán theo lời Thủ
tướng Etemad Dautet đã có lần nói với tôi là, người ta sẽ di dời tất cả các tu
sĩ ra ngoại thành [24]; đó cũng là nơi người ta sẽ đưa mọi Kitô hữu xứ này ra ở
đó, kể cả giáo dân người Pháp. Thứ ba, chính cha cũng tỏ ra thích nếu được an
táng nơi đó hơn là trong nhà chúng ta.
Có lẽ vì lý do thứ hai trên đây mà chúng tôi
cử hành tang lễ cha vào ngày hôm sau. Tất cả tu sĩ các Dòng có thể tham dự lễ
an táng được, đều có mặt, gồm các tu sĩ Augutinh, Cát Minh, Capuxinô, cùng giáo
dân Pháp, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan và mấy người Arméniens. Chưa bao giờ thấy tại
đây một đoàn người như thế dự lễ an táng. Họ tiễn biệt cha tới nghĩa trang xa
nhà chúng tôi khoảng một dặm rưỡi. Cha Tu viện trưởng Dòng Augutinh, Đại diện
tông tòa, cử hành nghi lễ (Le RP Prieur des Augustins, Vicaire, Aptq
(apostolique) fit l’office); rồi 7 ngày sau cha còn cửa hành Lễ hát trọng thể
trong nhà nguyện chúng tôi, cũng có mặt tu sĩ các Dòng trên đây.
Phần đông người Arméniens đều cảm thấy vui
mừng và vinh dự vì đã an táng cha gần với các ngôi mộ của thân nhân họ, bởi vì
họ nghĩ rằng cha là đấng thánh và có lẽ (họ nói thế) còn là thánh duy nhất nằm
tại đó. Đàng khác, cũng là ngôi mộ duy nhất của các tu sĩ Pháp, vì tu sĩ các
Dòng khác qua đời tại đây, đã được an táng trong nhà thờ của họ. Từ ngày an táng
cha, nhiều Kitô hữu của chính xứ này, các linh mục và giám mục đã đến cầu
nguyện bên phần mộ cha, xin cha bầu cử cùng Chúa cho mình. Họ cũng đã nói với
tôi và khuyên tôi sau một năm thử mở mộ cha xem thế nào, vì nghĩ rằng xác cha
sẽ còn nguyên vẹn không bị hư nát.
Sinh thời ít khi ra ngoài mà cha không mang
trong mình cuốn Tin Mừng bằng tiếng Ba Tư để sử dụng khi có dịp; đến lúc chết
cha lại mang cách vẻ vang từ nội thành ra ngoại thành, điều mà chưa ai làm bao
giờ. Quan tài cha được phủ bằng tấm nhung đen trên có hình Thánh giá bằng nhung
trắng nhìn thấy khá rõ. Làm như thế rất xứng đáng với đời sống của cha. Vậy là
ngay cả khi chết, cha còn rao giảng Thánh giá như thế cho những người lương dân
này.
Nếu tiếng dân là tiếng Chúa, người ta không
còn hồ nghi cha không phải là một vĩ nhân (nếu không nói là ông thánh). Cảm
nghĩ đó vì công trạng của cha, là cảm nghĩ chung của cả những người ở nước Ý và
Pháp, khi cha đi qua đấy để tới đây [Rhodes ở Ý và Pháp từ 1649-1654]; ngay
những người láng giềng với chúng tôi, dù là Hồi giáo cũng tỏ ra có cùng cảm
nghĩ ấy. “Về phần chúng tôi còn ở lại đây, chúng tôi có thể nói chắc rằng:
chiếc cột nâng đỡ nhà chúng tôi đã đổ, ngọn đuốc soi sáng cho chúng tôi đã tắt,
người khởi sự và phát triển công việc truyền giáo xứ này được an táng như vậy
sẽ là viên đá tảng cho chúng tôi, người trung gian của chúng tôi đã rời bỏ chức
vụ ở đời này để thi hành việc đó trên trời bằng cách bầu cử cho biết bao xứ
truyền giáo đã coi cha như người cha, cách riêng xứ truyền giáo này tự coi mình
như con út của cha, nên đã làm những bổn phận bình thường cuối cùng đối với
cha.
Xin cha đáng kính hãy dâng niệm kỳ kinh
(suffrages) cho cha theo thói quen, hy vọng nhờ cha trợ giúp một ngày kia chúng
ta sẽ được dự phần triều thiên với cha, dù chúng ta chẳng có công trạng xứng
đáng và còn thuộc hạng rất thấp. Cũng vì mục đích ấy, chúng tôi và riêng tôi
còn khẩn nài cha và tất cả anh em chúng ta [Giêsu hữu] ở bên ấy [Tỉnh Dòng Tên
Paris] cầu nguyện cho cha trong các Thánh lễ.
Tại Ispahan ngày 11 tháng 11 năm 1660. Người
tôi tớ rất hèn mọn và người con vâng phục của cha đáng kính trong Chúa chúng
ta.
AMÉ CHÉZAUD, S.J
Chú Thích
[1] Michel Barnouin, La parenté vauclusienne
d’Alexandre de Rhodes (1593-1660), Extrait des Mémoires de l’Académie de Vaucluse,
Huitième Série, Tome IV- Année 1995, Avignon 1995 tr. 29.
[2] Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 852,
ngày 12-4-1992, tr. 13.
[3] Chúng tôi đã đến Avignon cách đây 31 năm
để tìm hiểu dòng tộc Rhodes và nơi ông sinh trưởng. Các Sổ Rửa tội thời đó liên
quan đến Jean, Alexandre, Georges và mấy người em khác đã mất; chỉ còn lại Sổ
Rửa tội ghi tên 2 người em ruột là Francois di Roddi (Rhodes) rửa tội 12-7-1604
và Hélène ngày 22-2-1607. Nên nhớ ngày 20-9-1792, nước Pháp (Avignon vừa sáp
nhập vào Pháp được 1 năm) mới chính thức công bố Luật về khai sinh, giá thú,
khai tử.
[4] Tóm lược theo Francois de Dainville, La
naissance de l’Humanisme moderne t.I Paris 1940, tr. 85-95.
[5] Archivum Romanum Societatis Iesu, Fondo
gesuitico, số 732, 734, 735.
[6] Alexandre de Rhodes, Divers voyages et
missions, Paris 1653, tr. 21.
[7] A.De.Rhodes, Relation des progrez de la
Foy au Royaume de la Cochinchine, Paris 1652, tr. 132: lên tàu ngày 9-7-1645;
A.De.Rhodes, Divers voyages et missions, Paris 1653, tr. 269: lên tàu ngày
3-7-1645.
[8] Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites
de Chine de 1552 à 1800, Roma-Paris, 1973 tr. 54.
[9] Đây là thư của cha Amé Chézaud gửi cha
Giám tỉnh Dòng Tên Pháp, Jacques Renault; nhưng xem ra còn có mục đích chuyển
cho các Giêsu hữu trong Tỉnh Dòng, nên tác giả đã ghi Lettre Circulaire, mà
chúng tôi tạm dịch là Thư Luân lưu.
[10] Bình an của Đức Kitô: Trong các thư từ,
tường trình của anh em Giêsu hữu thời đó, thường ghi ở đầu dấu Thánh giá và chữ
Pax Christi.
[11] Nhà Dòng Tên ở Ispahan thời đó thuộc
Tỉnh Dòng Tên Pháp, gồm 3 người: cha Alexandre de Rhodes, bề trên; cha Amé
Chézaud và tu huynh Georges Berthe, cũng viết là Georges Berghé, hay như A.
Chézaud lại viết là George Berthe. Tu huynh George Berthe sinh 1622 tại
Bourges, Pháp; gia nhập Dòng Tên 5-1-1638; khấn lần cuối cùng 28-9-1653 tại nhà
thờ Saint-Louis, Paris. Chúng tôi phỏng đoán tu huynh Berthe đã cùng sống với
Amé Chézaud tại Julfa, gần Ispahan, rồi cùng Chézaud đến ở tại Ispahan với A.de
Rhodes. Berthe đã đi vùng Tartarie với Chézaud để truyền giáo vào khoảng 1659,
nhưng không thành công. Năm năm sau, 1664, Berthe lại đi Trung Quốc truyền
giáo, nhưng qua đời trên đường đi (in itinere ad Sinas) 7-2-1664.
[12] Alexandre de Rhodes rời Marseille 16-11-1654
để đi Ba Tư theo lệnh Bề trên Cả Dòng Tên. Trên đường đi, cha ngừng tại đảo
Malte, bỏ Malte 2-12-1654 tới Seyde thuộc Syria 11-12-1654, mừng lễ Giáng sinh
tại Đất thánh. mãi tới 1-11-1655, Rhodes mới có mặt tại Ispahan, thủ đô Ba Tư
thời ấy. Vậy, kể từ khi Rhodes hiện diện tại Ispahan đến khi qua đời, được đúng
5 năm 4 ngày như Chézaud ghi nhận.
[13] Theo Chézaud, Rhodes tắt thở khoảng 10
giờ đêm, tức 22 giờ ngày 5-11-1660.
[14]. Trong thư, Chézaud không nhớ rõ ngày
tháng năm sinh của Rhodes, nên liền những chữ ngày tháng năm sinh, Chézaud còn
để trống.
[15] Từ năm 1650-1659, Rhodes đã cho xuất bản
tại Roma, Paris, Lyon, 10 tác phẩm bằng các ngôn ngữ Ý, Latin, Việt, Pháp,
thuật lại những hoạt động truyền giáo của cha và của các bạn cùng Dòng. Nếu
Rhodes không để lại những công trình trên, thì ngày nay chẳng biết được con
người và hoạt động của cha. Trong 10 tác phẩm, 8 viết về Việt Nam, 1 về Nhật
Bản, 1 về Ba Tư.
[16] Sau khi phải bỏ Đàng Trong vì bị chúa
Nguyễn Phước Lan trục xuất, Rhodes về Áo Môn (Macao) rồi về Roma, Lyon, Paris,
vận động cho có giám mục đến Việt Nam. Những hoạt động sôi nổi của Rhodes tại
Roma (1649-1652) và tại Pháp (1652-1654), làm cho nhiều người Ý và Pháp biết
đến công việc của cha ở Đàng Ngoài và Đàng Trong.
[17] Tartarie, danh từ địa lý xưa chỉ phần
lớn các vùng Mông Cổ, Mãn Châu, Tân Cương, Afgahanistan và Baloutchistan. Trước
thế kỷ 14, người ta gọi Tartarie chỉ riêng cho vùng Tân Cương. Theo chúng tôi,
khi Chézaud nhắc tới vùng Tartarie, có thể hiểu là vùng Tân Cương phía cực Tây
của Trung Quốc ngày nay; vì, theo J.Déhergne, chuyến đi của Chézaud qua ngả
Khorassan. (Joseph Déhergne, Répertoire des Jésuites de Chine de 1552 à 1800,
Roma-Paris, 1973 tr. 54)
[18] Trong thư A.de Rhodes gửi cho người em
ruột là Georges de Rhodes, viết tại Ispahan 20-5-1658: từ khi anh ở xứ này,
Chúa ban cho anh học được tiếng Ba Tư: anh biết vừa đủ để giảng. (Kho lưu trữ
Dòng Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n. 161)
[19] Vì người Hồi giáo chỉ coi Đức Giêsu Kitô
là một người, cũng được dựng nên từ bụi đất như Ađam, do Thiên Chúa sai đến,
nhưng không phải là Thiên Chúa. Theo Hồi giáo, ai nói Đức Giêsu Kitô là Thiên
Chúa, mắc tội phạm thượng. (Kinh Koran, chương 2, câu 81; chương 3, câu 52;
chương 5, câu 76)
[20] Hay phải uống nước (ou boire ces eaux):
hiểu được chăng là những thừa sai bị chết đắm tàu khi đi truyền giáo.
[21] Tục xử bị treo cổ trên hố xuất hiện ở
Nhật khoảng từ cuối thế kỷ 16: nạn nhân bị treo ngược đầu trên một hố mới đào;
sau khi chết, người ta cắt dây cho xác rơi xuống hố. Hình khổ này tiếng Nhật
gọi là Ana-tsurushi. Vào thế kỷ 17 nhiều thừa sai ở Nhật bị hành quyết như vậy.
[22] Vì tôn kính Anrê Phú Yên tử đạo ở Quảng Nam 26-7-1644, cha Rhodes giữ sọ của vị này bên mình, rồi mang về tới Roma. Hiện nay sọ của Anrê Phú Yên đang được đặt tại trụ sở Bề trên Cả Dòng Tên ở Roma.
[23] Rhodes là tu sĩ năng nổ, nhiệt tình, can đảm, có nhiều sáng
kiến, dám nói, dám làm, nhưng rất vâng phục bề trên. Đọc hết cuốn Divers
voyages et missions của cha, chúng ta cũng thấy được cha có đức vâng phục đáng
ca tụng: Trên đường đi Nhật Bản phải ngừng hơn hai năm tại Goa, không tiếp tục
đi Nhật được vì cấm đạo, nên cha đã vâng lời bề trên tạm ở lại Goa; khi tới Áo
Môn, không thể đến Nhật được, cha vâng lời bề trên đến Đàng Trong cuối năm
1624; sau khi bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài năm 1630 cha cũng vâng ý bề trên ở
lại Áo Môn dạy thần học 10 năm, điều mà cha không thích; nhất là vâng phục bề
trên ngừng hoạt động ở Pháp để đi Ba Tư truyền giáo từ cuối năm 1654.
[24] Ngay giữa năm 1658, khi viết thư cho
người em ruột là cha Georges de Rhodes, A.de Rhodes đã nhắc tới việc Thủ tướng
Ba Tư cho biết sẽ chuyển các tu sĩ Tây phương ra ngoại thành. (Kho lưu trữ Dòng
Tên Tỉnh Paris, Fonds Rybeyrete, n. 161)
LƯU Ý: Xin Tu viện Dòng Tên Thủ Đức,
nơi lưu giữ tài liệu của cha Đỗ Quang Chính sau khi ngài qua đời cho tìm
lại bản sao tài liệu nguyên gốc nầy. Nếu được xin cho lm Antôn một bản
photocopie… để triển lãm. Rất cám ơn.
MỘT ĐỜI TOÀN HIẾN CHO CHÚA VÀ CÁC LINH
HỒN. MỘT GƯƠNG VÂNG PHỤC VÀ KHIÊM NHƯỜNG SÂU THẲM. TẠI SAO MÃI ĐẾN
HÔM NAY NGƯỜI ĐỜI VẪN TỎ RA VÔ ƠN, HỬNG HỜ VÀ BẤT CÔNG VỚI CHA ĐẾN
THẾ. VỚI HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG, XIN CHA TIẾP TỤC ĐỘ TRÌ
CHO ĐẤT NƯỚC ĐẠI VIỆT – ĐÀNG TRONG CHÍ ĐÀNG NGOÀI – MÀ CHA ĐÃ HẾT LÒNG YÊU MẾN
VÀ PHỤC VỤ. LẠY CHA (THÁNH) ALEXANDRE DE RHODES, XIN CẦU CHO
CHÚNG CON.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment