Chúa Giêsu đã từng động viên: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27) và Thánh Phêrô cũng khuyến khích như vậy. (1 Pr 3:14) “Đừng xao xuyến” cũng chính là “đừng nhút nhát” hoặc “đừng sợ hãi.” Muốn vậy thì phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba: Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!
Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần, là
Thánh Linh, là Thần Khí. Nhưng đôi khi người ta có thể ảo tưởng mà lầm lẫn, cái
gì cũng bảo là “Ý Chúa.” Vì thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI cảnh
giác và đưa ra cách nhận biết: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng
hãy cân nhắc các thần khí xem có
phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều
ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra
thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên
xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy
bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không
tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô.
Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện
nay nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3)
Lời cảnh báo của Thánh Gioan thật đáng sợ! Và
chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại.
Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác
càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những
khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê. Đúng là cái chữ @ nó “vòng vo” rắc
rối thật!
Cuộc sống (đời và đạo) có nhiều thứ khiến
chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào
bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể
cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ rất
nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng ta khô khan,
phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận biết mà tránh,
đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, thế mới đáng sợ, và
chúng ta phải rất tỉnh thức!
Tại Hoa Kỳ, một người quen cho biết rằng em
gái của họ lấy chồng là Phật tử, người chồng này làm cho cô ta bỏ đạo Công giáo
và nói xấu Công giáo đủ thứ. Tại Saigon, một thanh niên bỏ đạo Công giáo, rồi
cạo đầu và quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải giữ nghiêm luật nên
“căng” quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ đạo
Công giáo rồi đi lập chùa riêng và làm ni cô trụ trì.
Thấy những trường hợp như vậy, chúng ta đừng
vội hoang mang và “đừng xao xuyến,” vì đó là những trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ
đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một vấn đề nào đó vì họ
không được “như ý,” đồng thời họ là những người “yếu bóng vía” và chẳng hiểu rõ
Công giáo, đó chỉ là dạng “lý sự cùn,” đầu óc thiển cận hoặc như “ếch ngồi đáy
giếng” mà thôi.
Những người giỏi không như vậy, người ta càng
giỏi thì càng tin có Thiên Chúa. Đa số các bác học đều là những người tin vào
Thiên Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995) đã
rửa tội cho một Thượng tọa Phật giáo cao niên vào chính đêm Noël. (Nay chợt hồi
tưởng liên quan chuyện “theo đạo,” nhưng tiếc rằng lâu quá rồi, tôi không còn
nhớ tên ông cựu họ Thích này!) Cách nay hơn 20 năm, một ni cô chán “ăn chay
trường” rồi gia nhập Công giáo, sau đó cô này lấy chồng là người Công giáo. Vợ
chồng họ người Đồng Nai, nay sống hạnh phúc tại Thủ Dầu Một (Bình Dương).
Cũng nên nhớ rằng không một người nào lập đạo
mà dám nói “tôi là Thiên Chúa,” chỉ có Chúa Giêsu. Chẳng có ai làm được những
phép lạ như Đức Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Đức Giêsu dám nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống.”
(Ga 14:6) Chỉ như vậy thôi thì cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý
thật” và đâu là “chân lý giả.” Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng
phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã nói tới.
Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi
nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu
Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có
khoảng ba ngàn người theo đạo. (Cv 2:38-41) Đâu có thể đơn giản mà có số người
đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc
có lợi về vật chất! Hằng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người
trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy.
Đó là những bằng chứng hùng hồn, là phép lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần đang tác
động không ngừng trong Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.
Cũng thấy có những người gia nhập Công giáo
khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo
rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người
theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm
Thiên Phong Bửu Dưỡng. [*] Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không
ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào
Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo,”
hãy cố gắng giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao
giờ xao xuyến!
Giáo hội Công
giáo đặt tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến,
nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Hòa giải để
tha thứ tội lỗi, để thương xót và ban ân sủng cho chúng ta, giúp chúng ta sống
đời sống luân lý tốt hơn.
Thời đó, khi Chúa Giêsu đã phục sinh
và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những
tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà
goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn
đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao
giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em,
anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn
ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi
sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời
Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)
Trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ
chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông
Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê
Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi
cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và
tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” Đó chính là Nhóm
Bảy Người, tức là các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có phó tế Stêphanô
về sau chịu tử đạo. Không chỉ có phó tế Stêphanô mà còn biết bao vị tử đạo khác
đã xả thần vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời.
Kitô hữu hãnh diện: “Vinh quang của tôi là Thập Giá của Đức Giêsu
Kitô – Mea Gloria Est Crux Christi.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và
không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Người ta sợ
đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ, người ta lại bị đau khổ thu hút.
Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được
điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” chúng ta
– các Kitô hữu có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô.
Tác giả Thánh Vịnh đã hân hoan mời
gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng
Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn
cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv 33:1-2) Và rồi không thể
lặng im, tác giả Thánh Vịnh liền giải thích: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy
tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt
đất.” (Tv 33:4-5)
Vâng, Thiên Chúa là tình yêu, Ngài yêu
thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) còn thù nghịch với
Ngài, (Rm 5:10) thậm chí còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao.
Ngài luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt
trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ
khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv 33:18-19)
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xem lại
chính mình, như Thánh Giacôbê phân tích: “Ai
cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là
thứ đạo đức hão.” (Gc 1:26)
Còn Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa
động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức
Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa
và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà
xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy
để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng
liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này
đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ
tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6) Lòng thương xót của Thiên
Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu nổi!
Thánh Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc
của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin,
còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng
góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số
phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư
tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan
truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi
đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9) Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói
theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn
gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,... Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ mạng theo kế
hoạch của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu động viên: “Anh em đừng
xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống
đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu
cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là
điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng
“chuyển hóa” được gì, đúng như có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay
đen được.” (Mt 5:36) Vì thế
mà chúng ta phải sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!” Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ vô tư mà sống!” Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có lo cũng chẳng
được, cái gì đến sẽ đến, thế thì lo chi cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng
xao xuyến” cũng chính là tin vào sự tiền
định và quan phòng của Thiên
Chúa vậy! Và có một điều thiết tưởng cũng nên lưu ý: “Không xao xuyến” nghĩa là
đừng chạy theo những cái mà người ta cho đó là “sự lạ,” dạng này thường xuyên
được người ta “chú ý,” mà như vậy là chúng ta chưa thực sự tin vào Thiên Chúa,
chưa thực sự tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Hãy cẩn thận!
Tại sao không nên xao xuyến? Chúa
Giêsu căn dặn: “Trong nhà Cha Thầy có
nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh
em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:2-3) Người đời cũng biết nhận
định: “Sinh ký, tử quy” (sống gởi,
thác về). Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc đời như
chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó.” (Thánh nữ Catarina) Chết không
là hết, chết là biến đổi, chết là “ngưỡng cửa” bước vào sự sống đời đời. Thật
hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Đúng là niềm hạnh phúc của mọi niềm
hạnh phúc!
Khi Chúa Giêsu bảo: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”
Ông Tô-ma “gãi đầu” và hỏi ngay: “Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”
Đức Giêsu cười và đáp: “Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga
14:6) Đây là câu “nổi tiếng” trong Kitô giáo, được trích dẫn rất nhiều, và cũng
là niềm hy vọng chắc chắn của những người tin vào Con Thiên Chúa,
Đấng-nhập-thể-làm-người. Đức Giêsu nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh
em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7)
Ông Phi-líp-phê xin Ngài tỏ cho thấy
Chúa Cha để được mãn nguyện. Nhưng Ngài trách ông Phi-líp-phê ở với Ngài bao
lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Rồi Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách
hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì
chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như Tông đồ Philípphê mà thôi, e rằng chúng ta còn
“tệ” hơn thế đấy!
Chúa Giêsu nói thêm để giải thích cho
ông Philípphê và các tông đồ khác – đồng thời cũng là nói với mỗi chúng ta: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và
Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy
tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga
14:10-12)
Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh
tầm quan trọng của Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ niềm tín thác vào Thiên Chúa
giàu lòng thương xót luôn quan phòng và tiền định cho mỗi người theo ơn gọi
riêng (ơn thiên triệu), người ta sẽ thanh thản và sống theo lời khuyên của Đức
Kitô Giêsu: “ĐỪNG XAO XUYẾN!” Ước gì mỗi
Kitô hữu chúng ta đều có thể xác định như tác giả Thánh Vịnh: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv
16:5-6)
Lạy Thiên
Chúa, chúng con chỉ là bụi tro mà đã làm bận mắt Ngài, xin thương ban thêm Đức
Tin và lòng can đảm cho chúng con để chúng con không bị dao động trước mọi
nghịch cảnh, ngay cả khi đối diện với kẻ thù. Xin làm cho chúng con nên thánh
theo ước muốn và kế hoạch mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thánh Thần để chúng con
sống can đảm và được bình an. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục
Sinh, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Lm Bửu
Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi
hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng.
Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ
(1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi
quan lại cấp Thượng Thư.
Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc
Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế
làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và
tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời”
ấn định khác.
Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên
vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng
Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp)
trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời,
15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô (Bonifacius),
nghĩa là “bộ mặt đẹp.” Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Ta-đê-ô Lê
Hữu Từ (sau đó làm giám mục).
Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe
yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về
nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian này, thầy Bửu Dưỡng có
nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng này nhưng không
thành…
Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài
giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và
thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân
ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới
đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm
xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp
ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.
Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt
Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn dòng. Mặc dù mụt
nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẫu cưa một chân,
gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn nhận phong chức linh mục cho thầy vì
khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.
Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu
giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường
trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.
Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi,” Lm Bửu Dưỡng viết:
Trước kia tôi
rất ghét Kitô giáo và không muốn có
một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào
dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực
đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa,’ tôi cảm thấy
khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời.’ Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa.
Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.
Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua
những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm
liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm
dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất
cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’
Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó
đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.”
Thế nhưng Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét
Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục
Công giáo. Tôi được gặp ngài một lần, đã được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của
ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một
học giả hiếm có. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi
tiếng một thời trước “sự cố” 1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment