Chúa Nhật II Phục Sinh là
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót
(LCTX), được
Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên
thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938).
Tuy là hai cách gọi nhưng vẫn
chỉ là một. Tương tự, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX tuy ba mà một. Chính
Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi của LCTX, về
ước muốn của Ngài:
“Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng
thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính
công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Chúa Giêsu hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước
lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người
Trộm Lành Dimas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối
cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 3 tháng 4 năm 33. Cũng từ
Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa
mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM
HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX.
Quả thật, đức tin rất quan trọng. Thánh
Phaolô nói: “Người ta được nên công chính
vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3:28). Ngoài Tám Mối
Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, có thể gọi là “mối phúc thứ
chín”, do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc
thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và chắc chắn rằng bất kỳ ai
tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải
thất vọng” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16).
Nói tới đức tin trong ngày lễ kính LCTX, xin
“mở ngoặc” nhỏ: Thấy có những người hằng
ngày tới nhà thờ lần Chuỗi LCTX với cộng đoàn, nhìn bề ngoài thấy là người đạo
đức lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học,
không có tội (sic). Lạy Chúa, thật “khó hiểu” quá!
Tử vi (*) là gì? Tử vi cũng gọi là “tử vi
đẩu số”, một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây
dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và
chi,… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là
“chấm tử vi”. Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính
để lý giải những diễn biến xảy ra trong
đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng
có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Như vậy không
phải là “tin bằng môi miệng” ư?
Ngoài ra cũng thấy có những người vẫn còn
“chạy đua” theo những “sự lạ” trong khi lại không để ý các phép lạ hằng ngày:
Thánh Thể và không khí. Phải chăng như vậy cũng chỉ là “lẻo mép”, chúng ta đến
với LCTX mà chưa thực sự vì yêu mến? Thiết nghĩ, cách thể hiện đức tin như vậy
cũng nên “xét lại” lắm!
Người Việt nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái
“lượng”. Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi
gặp mưa gió. Thực tế minh nhiên. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều
sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi!
Thánh Faustina nói về việc sống đức tin: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được
thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những
nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong
những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì
chính khi ấy, công cuộc lại càng được
củng cố hơn nữa” (Nhật Ký, số 1659).
Tác giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ
phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 73:26). Chỉ người nào có đức
tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tin vào Chúa là tin vào
Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Trình thuật Cv 2:42-47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các
Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh,
và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm
thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của
chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu
cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh
tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được
toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được
cứu độ”.
Một đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét
của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương,
tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong
lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi
cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết
quên mình vì người khác,... Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc
chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Trước sau như một, Thiên Chúa mãi là Đấng
giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa
vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-3). Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều
được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi
người biết Ngài, và tuyên xưng: “Chúa là
sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118:14).
Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng
lại “trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Thật là kỳ công vô song của Thiên
Chúa! Vì thế, chúng ta hãy đồng thanh: “Đây
là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24).
Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô nói:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu
Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng
gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành
ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ
lòng tin, được Thiên Chúa quyền
năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong
thời sau hết” (1 Pr 1:3-5). Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các
cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác.
Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm để động viên chúng
ta: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân
hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền
ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ
quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế,
khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen
ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1:6-7). Lửa thử vàng, gian nan
thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không
nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc là vậy, chứ
miệng nói tín thác vào LCTX, thế mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng.
Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt,
chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích!
Thật vậy, Chúa Giêsu đã nói chắc chắn: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy
Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Về Mối Phúc “không thấy mà tin”, Thánh Phêrô
giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy
Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy,
anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được
thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1:8-9).
Trình thuật Ga 20:19-31 là đoạn Tin Mừng
quen thuộc nói về việc cứng lòng tin của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc
cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế
nhưng chúng ta quên rằng, nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính
diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi
nói tới đức tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh.
Có lẽ tông đồ Tôma là người thực tế nên cần
cụ thể, rõ ràng. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng
lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ
của Giáo hội, thế nên đức tin của chúng ta vẫn bị “lung lay” mỗi khi gặp gian
khổ, và chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu”
tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu” đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì
gọi là gì?
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày
Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người
Do-thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị
lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng lạnh xương sống lắm chứ!
Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy thật rồi. Rồi Ngài lại nói với
các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa
Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các
ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người
ấy bị cầm giữ”.
Nhưng chiều hôm đó không có mặt tông đồ
Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về thấy Chúa
nhãn tiền, nhưng ông Tô-ma nói chắc nịch: “Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Coi bộ “căng” dữ
nghen!
Tám ngày sau, các lại quy tụ và có cả ông
Tô-ma. Các cửa cũng vẫn đóng kín. Đức Giêsu lại hiện đến, đứng giữa và chúc bình
an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn
Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ngại hết sức! Biết rồi còn nói,
Thầy kỳ ghê đi! Ngại thì ngại lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
Đó là một dạng thú tội. Ngài ôn tồn: “Vì
đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay
những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Sau khi sống lại, hai lần đầu tiên Chúa
Giêsu hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần”, khi các tông đồ đang tụ họp
nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong
đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của
Chúa Giêsu Phục Sinh.
Thánh sử Gioan cho biết: Đức Giêsu đã làm
nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được
ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa,
và để anh em tin mà được sự sống nhờ
danh Ngài. Về đức tin, Thánh Gia-cô-bê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và
có Ngài làm chỗ nương thân” (Gr 17:7).
Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng
giàu lòng thương xót, và đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1). Chính vết
thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi
tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và
Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt (2), và rồi ông này đã phải
thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là
người công chính!” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47).
TIN để ĐƯỢC Thiên Chúa thương xót là hệ lụy
liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn
quyền, thế nên không ai có thể đến với Chúa Cha nếu không qua Đức Kitô: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là
sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).
Trong niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục
Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết và
sống lại: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin
vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không,
Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ
cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em
cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục
cuộc lữ hành trần gian cho đến khi hoàn tất cuộc đời, cũng là lúc chúng ta được
gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi mãi.
Lạy Thiên
Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết thật lòng và chỉ
tín thác vào Con Chúa, Đấng đã chịu tử nạn vì thương xót chúng con và đã phục
sinh để chúng con được sống dồi dào. Xin Chúa thương xót chúng con và toàn thế
giới. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã yêu thương
chúng con đến cùng, và là Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(1) Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ
là tím, VI là huyền diệu. Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa
tím này để chiêm bốc.
(2) Đội trưởng Longinus (cổ ngữ
Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim
Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và
được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên
thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô (Rôma).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment