Chiều vàng nhạt nắng hoàng hôn
Thâm tình ly biệt, đoạn trường sầu bi
Người buồn tiễn biệt người đi
Người đi sẽ đón người về hân hoan
Cuộc chia ly nào cũng trĩu buồn, càng buồn hơn khi cuộc chia ly đó lại cách biệt âm dương, đó là thâm tình Mẫu Tử, nghĩa tình Thầy Trò.
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại tang
của các Kitô hữu. Tuy nhiên, trong nỗi buồn “đậm đặc” ấy lại chứa đầy ắp niềm
hy vọng để bước qua cửa ải sự chết và hân hoan tiến vào Miền Vĩnh Sinh trong
tiếng ca vang Alleluia!
Cụm từ “Thứ Sáu Tuần Thánh” của Việt
ngữ không lột tả được thâm ý như Anh ngữ: Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Thứ
Sáu là “ngày chết chóc,” ngày xui xẻo và buồn ảm đạm, thế mà lại được coi là
Ngày Tốt Lành, thật là kỳ diệu biết bao!
Đành rằng chúng ta cũng đã và đang góp
phần bán đứng Đức Kitô, nhẫn tâm đóng đinh giết chết Chúa Giêsu nhiều lần qua những
lần phạm tội, hằng ngày chúng ta còn nỡ lòng đóng đinh nhau bằng nhiều loại
đinh: Chỉ trích, gièm pha, khích bác, phe cánh, ghen ghét, đố kỵ,… Trong các
loại đinh đó, có đinh gỉ sét, có đinh sắc bén, có đinh dài thoòng, có đinh
xoắn,…
Thật là không dễ nhổ ra các loại đinh
đó một khi đã được “đóng” vào ai đó! Có lẽ vì vậy mà khi thấy các phụ nữ
Giê-ru-sa-lem khóc thương Ngài, Chúa Giêsu dừng lại với cây Thập Giá trên vai
và nói thật lòng với họ: “Hỡi chị em
thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình
và cho con cháu.” (Lc 23:28) Và đó cũng chính là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ
mỗi chúng ta hôm nay!
Chúa Giêsu đã nói trước: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Điều
này đã được Ngài chứng minh vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chính xác là Chúa Giêsu đã thọ hình 3 giờ chiều trên Đồi
Sọ vào ngày 3 tháng 4 năm 33 (sau công nguyên). Thời điểm và ngày tháng
Chúa Giêsu chịu chết đã được Tạp chí Địa Chất Quốc tế thực hiện cuộc nghiên cứu
để xác định “ngày giỗ” của Chúa Giêsu. Cuộc nghiên cứu này dựa vào nền tảng
Phúc Âm, đồng thời kết hợp với các tài liệu về địa chất và thiên văn học, các
nhà nghiên cứu đã đủ cơ sở để xác định như vậy.
Thế nào là mức độ yêu? Mức độ yêu là
YÊU VÔ HẠN, yêu như điên, yêu phát khùng, yêu cuồng nhiệt, yêu đến nỗi bị coi
là dại dột, đó là si tình. Chuyện đời có mối tình của Romeo va Juliet của văn
hào Shakespeare (1582-1616, Anh quốc), Việt Nam có mối tình Lan và Điệp, còn văn
hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp quốc) yêu say đắm cô hàng xóm Adele
Foucher nhưng bị mẹ cấm, sau khi mẹ mất, ông đã kết hôn với Adele. Tuy có vợ
rồi nhưng ông lại “phải lòng” cô Juliette Drouet, và Juliette Drouet đã viết
cho ông khoảng 1700 lá thư tình. Ở đây chỉ muốn nói tới khối tình si của những
trái tim yêu hết mình mà thôi. Dày dạn kinh nghiệm tình trường, Victor Hugo đã kết
luận: “Chết cho tình yêu là sống cho tình
yêu.”
Chúa Giêsu cũng là người si tình thứ
thiệt, độc nhất vô nhị, Ngài mệnh danh là Người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaia đã đề
cập: “Này đây, Người Tôi Trung của Ta sẽ
thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ
đã sửng sốt khi thấy Tôi Trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn
dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa
phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói
bao giờ.” (Is 52:13-15) Người Tôi Trung có những động thái trái ngược rất
lạ!
Chính Người Tôi Trung ấy “lớn lên tựa
chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn, chẳng còn dáng vẻ,
chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng
ta ưa thích.” (Is 53:1-2) Không chỉ vậy, Người Tôi Trung ấy còn “bị đời khinh
khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật, như kẻ ai thấy cũng
che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.” (Is 53:3) Đâu ai
ngờ sự thật là “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh
chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị
phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.” (Is 53:4) Đây là “điểm
nóng” để chúng ta phải tự chấn chỉnh cách nhìn của mình đã và đang dành cho tha
nhân.
Cuộc đời Người Tôi Trung là Bản Trường
Ca Đau Khổ, là Liên Khúc Bi Tráng Ca. Thật vậy, họa vô đơn chí, đau khổ cứ
chồng chất lên đau khổ, theo cách nhìn phàm tục thì đúng là cuộc chiến bại ê
chề, thê thảm.
Chính Người Tôi Trung “đã bị đâm vì
chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng
ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is
53:5) Trong tình trạng Người Tôi Trung bị coi là te tua tơi tả như vậy thì “tất
cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Đức
Chúa đã đổ trên đầu người mọi tội lỗi của tất cả chúng ta,” để rồi Người Tôi
Trung tiếp tục “bị ngược đãi, cam chịu nhục, nhưng chẳng mở miệng kêu ca, như
chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở
miệng.” (Is 53:6-7)
Ê chề nhục nhã đến vậy mà vẫn chưa yên
thân: “Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi
bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi
nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa
bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng
không hề nói chuyện điêu ngoa.” (Is 53:8-9) Quả thật, kinh hãi quá, phàm
nhân chúng ta không thể tưởng tượng nổi và không thể đủ sức chịu đựng như vậy!
Nhưng đó là Thánh Ý Thiên Chúa: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật
đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý
muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy
ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung
của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is
53:10-11) Ý Chúa đã vậy, đáng khâm phục là đức vâng lời của Người Tôi Trung.
Đúng là “Vâng lời trọng hơn của lễ.”
(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9)
Cả một bài đọc dài với đủ dạng đau khổ
như thế mà không thấy câu chữ nào vô nghĩa, người nghe cũng không cảm thấy nhàm
chán. Kỳ diệu quá sức! Nhưng câu cuối cùng thấy có màu “sáng” nhất: “Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia
sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi
vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó
đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.” (Is 53:12) Và
đó là hệ lụy tất yếu cho những người-tôi-trung-ngay-khi-gian-khổ.
Người Tôi Trung luôn một lòng tin
tưởng Thiên Chúa, dù gặp bao trắc trở nhưng vẫn trung tín và kiên tâm cầu
nguyện: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin
đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con.”
(Tv 31:2) Ngay cả cái chết cũng không tách Người Tôi Trung khỏi lòng mến
yêu Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó
thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín.” (Tv 31:6)
Biết rõ mình “nên trò cười cho thù
địch và cho cả hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích đều kinh hãi, tránh xa, bị
lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ, hoá thành đồ hư vất bỏ,” (Tv
31:12-13) nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Chúa, vẫn dám thưa rằng:
Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con
khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên
tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ.” (Tv 31:15-17) Và như Người Tôi
Trung, tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta: “Hỡi
mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25)
Thánh Phaolô giải thích và chia sẻ
kinh nghiệm tâm linh: “Chúng ta có một vị
Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta
không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã
chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế,
ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai
Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót
thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi
khi cần.” (Dt 4:14-16) Qua đó, chúng ta thấy Đức Giêsu đã mặc xác phàm yếu
đuối như chúng ta để đồng lao cộng khổ với chúng ta, đặc biệt là để động viên
chúng ta vượt qua mọi “ngưỡng” đau khổ, nhất là vượt qua cửa ải sự chết.
Thánh Phaolô nói thêm: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là
Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng
phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn
cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Dt 5:7-9) Bài học
quá đắt giá, nhưng cái gì càng đắt giá thì càng giá trị cao!
Bài Thương Khó là đoạn Phúc Âm buồn
thảm nhất trong Kinh Thánh. Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu là nhân vật độc nhất
vô nhị, nổi tiếng nhất trong lịch sử xưa nay và đến mãi tận thế. Càng ngày
người ta càng phải công nhận, bằng cách này hay cách khác, ngay cả những người
cố ý tỏ ra không công nhận nhưng thực ra trong thâm tâm họ vẫn công nhận.
Trình thuật Ga 19:1-42 cho biết “chuyến
đau khổ” của Chúa Giêsu bắt đầu từ Vườn Dầu, tức là Ghết-sê-ma-ni.
Sau Bữa Tiệc Ly, Ngài đi ra cùng với
các môn đệ sang bên kia suối Kít-rôn, vào một thửa vườn. Giu-đa cũng biết nơi
này, vì lâu nay Thầy trò thường quy tụ ở đó.
Ngay đêm Thứ Năm, Giu-đa tới đó và dẫn
một toán quân với đám thuộc hạ của các thượng tế cùng nhóm Pha-ri-sêu. Họ mang
theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên
tiến ra và hỏi: họ tìm ai. Họ nói ngay là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài nhận ngay: “Chính tôi đây.” Mới nghe vậy, họ liền lùi
lại và ngã xuống đất. Ngài hỏi lại, họ vẫn nói là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài vẫn
nhận mình là người họ tìm, chấp nhận cho họ bắt Ngài nhưng Ngài yêu cầu không
bắt bất cứ ai đi với Ngài. Điều này ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không
để mất một ai.”
Ông Phêrô có sẵn thanh gươm liền tuốt
ra và chém đứt tai phải của Man-khô, đầy tớ của vị thượng tế. Ngài bảo ông
Phêrô xỏ gươm vào bao, và giải thích rằng Ngài sẵn sàng uống chén mà Chúa Cha
đã trao. Họ bắt Ngài và dẫn Ngài đến ông Kha-nan, nhạc phụ của thượng tế
Cai-pha. Chính Cai-pha đã đề nghị với người Do-thái là “nên để một người chết
thay cho dân thì hơn.”
Dù bị chất vấn và tra khảo, nhưng Chúa
Giêsu vẫn nói thẳng và nói thật chứ không run sợ trước thế lực của họ, có người
vả vào mặt Ngài, nhưng Ngài vẫn hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23) Tất nhiên họ chẳng nói lại được gì,
mà chỉ “cả vú lấp miệng em.” Rồi ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế
Cai-pha trong khi Ngài vẫn bị trói.
Trong khi đó, ở ngoài sân, ông Phêrô
bị người ta phát hiện thuộc nhóm của Chúa Giêsu nên ông sợ và chối thẳng thừng,
không chỉ một mà tới ba lần. May có tiếng gà gáy sáng, và ông đã ăn năn.
Người Do-thái lại điệu Chúa Giêsu từ
nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn Phi-la-tô khi trời vừa mới sáng. Họ không
vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Bề trong không lo mà
chỉ lo bề ngoài, thật là tồi tệ!
Ông Phi-la-tô hỏi đủ điều nhưng Ngài
chỉ im lặng. Ông Phi-la-tô cũng nhận thấy Ngài không có tội gì và có ý phóng
thích Ngài, nhưng ông ta vẫn không dám làm theo tiếng nói lương tâm vì ngại với
đám đông, sợ mất chiếc ghế chức tước và quyền lực. Nghe Chúa Giêsu nói về sự
thật, ông ta còn “giả nai” hỏi lại: “Sự
thật là gì?” (Ga 18:38) Bà
vợ bảo ông ta đừng nhúng tay vào vụ án xử Chúa Giêsu, ông ta đi lấy nước rửa tay.
Các động thái của ông Phi-la-tô cho
thấy sự hèn nhát và cố ý làm ngơ công lý. Đó là điều chúng
ta phải cảnh giác trong mỗi động thái của mình, nhất là những gì liên quan sự
thật và công lý.
Theo tục lệ của người Do-thái, vào dịp
lễ Vượt Qua, người ta thường tha một phạm nhân nào đó. Người ta hùa nhau xin
tha cho tướng cướp khét tiếng Ba-ra-ba, nhưng lại xin giết chết Đức Giêsu.
Trước đó không lâu, người ta mới tung hô “vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến” ở
Thành Giê-ru-sa-lem, thế mà giờ đây lại quyết xin đóng đinh người mà họ đã tôn
vinh.
Thế là ông Phi-la-tô truyền đem Đức
Giêsu đi và đánh đòn Ngài. Họ hành hạ Ngài với những kiểu dã man nhất. Sau đó,
ông Phi-la-tô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài cho người ta thấy Ngài thê thảm thế nào
với vòng gai trên đầu mà thôi kết án Ngài. Thế nhưng họ vẫn không chút mủi
lòng, cho rằng Ngài lộng ngôn khi nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ càng thấy
Ngài bị hành hạ tơi tả thì họ càng vui sướng: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn
nữa. Sợ gì? Sợ mất chức, mất chức thì
mất bổng lộc và mất quyền. Ông ta bảo ông có quyền tha và có quyền đóng
đinh Đức Giêsu vào thập giá. Nhưng Đức Giêsu nói ngay: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông. Vì thế,
kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn.” Ông Phi-la-tô tìm cách tha Ngài
nhưng vẫn không dám thực hiện vì bị áp
lực của đám đông.
Họ bắt Ngài tự vác lấy thập giá đi đến
Đồi Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha. Cùng chung hình phạt đóng đinh vào thập giá
với Ngài là hai tên gian phi khét tiếng. Phía trên thập giá có ghi: “Giêsu Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” Vô
tình mà họ đã phải công nhận Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái. Bảng đó được ghi
bằng đa ngữ: Tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. Các thượng tế của người Do-thái muốn
ghi kiểu khác, nhưng ông Phi-la-tô không chiều theo ý họ. Đó là ý Chúa vậy!
Từ trên Thập Giá, Đức Giêsu trao phó
Đức Mẹ cho ông Gioan chăm sóc, và xin Đức Mẹ nhận chàng trai Gioan làm con. Nghe
những lời trăn trối như vậy thì hẳn ai cũng phải động lòng. Sau đó, Đức Giêsu
biết là mọi sự đã hoàn tất. Ngài kêu: “Tôi
khát!” Nghe vậy mà người ta lại nhẫn tâm lấy miếng bọt biển có thấm đầy
giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Đức
Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi
Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Lời kêu khát của Chúa Giêsu nhắc chúng
ta về niềm khát khao của Ngài dành cho chúng ta là chúng ta phải cố gắng NÊN
THÁNH, nhắc nhở chúng ta yêu mến THÁNH THỂ, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta
đừng làm ngơ trước những nỗi khát khao của tha nhân – nhất là đối với những CON
NGƯỜI HÈN MỌN luôn ở bên chúng ta hằng ngày.
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái
không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày đại lễ sa-bát. Vì thế họ xin
ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh cho họ mau chết để
rồi lấy xác xuống cho kịp trước khi đêm xuống. Họ đánh giập ống chân hai người cùng
bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ
không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn
Ngài, tức thì, MÁU cùng NƯỚC chảy ra. Tứ đó, Nguồn Suối Lòng Thương Xót tuôn
chảy mãi cho đến tận thế để ai nhìn lên Ngài và thành tâm tín thác thì sẽ được hưởng
Ơn Cứu Độ.
Sau đó, Đức Giêsu được hạ xác xuống
khỏi Thập Giá, được đưa đi an táng theo tục lệ chôn cất của người Do-thái tại
một thửa vườn. Nỗi buồn “dừng lại” nhưng vẫn âm ỉ trong lòng mọi người. Tuy
nhiên, Ngày Thứ Sáu Buồn này lại chính là Ngày Thứ Sáu Tốt Lành. Chúa Giêsu
chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu thua cuộc để chúng ta chiến
thắng, Ngài chịu chết để chúng ta được sống. Chúng ta tưởng niệm cái chết của
Ngài nhưng không phải là để thương xót Ngài mà là thương xót chính số phận của
chúng ta.
Và thật là hạnh phúc cho chúng ta,
những tội nhân khốn nạn, vì Thánh Phaolô xác định: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người.
Người không còn chấp tội nhân loại nữa.” (2 Cr 5:19) Thứ Sáu Tuần Thánh
là cột mốc đánh dấu lời hứa đó, như Cựu ước nói: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3)
Thật là đại phúc cho chúng ta!
Lạy
Thiên Chúa Cha, xin thương xót và tha thứ lũ tội nhân chúng con. Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cảm tạ Ngài đã chịu chết thay chúng con, xin giúp chúng con nhổ những
chiếc đinh gỉ sét mà chính chúng con đóng vào chân tay Ngài, và đóng vào cuộc
đời tha nhân mà chúng con vẫn nhẫn tâm đóng vào nhau hằng ngày. Chúng con chân
thành cầu xin nhân danh Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ
chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment