Sống trên đời, chúng ta đi được khoảng cách xa
bao nhiêu cũng không quan trọng bằng những người chúng ta gặp dọc đường. Quả thật, sự gặp gỡ rất quan trọng. Sống ở
đời không thể không gặp gỡ nhau. Gặp nhau là nhìn thấy nhau, và thường liên
quan cuộc đối thoại – có thể đối thoại bằng ngôn ngữ, bằng ánh mắt, bằng động
thái, bằng cử chỉ, thậm chí người ta vẫn có thể đối thoại ngay trong sự im
lặng.
Gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để yêu thương, để chia sẻ, để giúp đỡ, để biến đổi nhau,… Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ chính Đức Kitô Phục Sinh.
Gặp gỡ nhau để làm gì? Gặp nhau để yêu thương, để chia sẻ, để giúp đỡ, để biến đổi nhau,… Gặp người đời mà còn cần thiết như vậy huống chi được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ chính Đức Kitô Phục Sinh.
Cuộc gặp gỡ ấy đã được Lm Ns Yuse Tiến Lộc (DCCT)
mô tả: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời
mình, gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh, gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp
mình, gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh” (Gặp Gỡ Đức Kitô).
Gặp gỡ Đức Kitô là một dạng được sống lại –
tâm linh hoặc thể lý. Trường hợp sống lại của La-da-rô (Ga 11:1-44), em trai
của Mác-ta và Ma-ri-a, và con trai bà góa thành Na-in (Lc 7:11-17) chỉ là sống
lại về thể lý bình thường, không đổi khác và sẽ lại chết, nhưng trường hợp sống
lại của Đức Kitô là sống lại đặc biệt và không thể chết nữa. Thân xác nhục thể
và thân xác phục sinh vẫn là một, nhưng chắc chắn khác thường, rất kỳ diệu, vì
thế mà chính Chị Ma-ri-a Mác-đa-la và hai môn đệ trên đường Em-mau đều không
nhận ra Thầy Giêsu của mình. Chị Ma-ri-a Mác-đa-la chỉ nhận ra Ngài khi Ngài
gọi bằng giọng thân thương quen thuộc, hai môn đệ kia chỉ nhận ra Ngài khi Ngài
làm động tác quen thuộc: Bẻ bánh.
Thậm chí còn hơn vậy, khi các tông đồ thấy
Chúa hiện ra đứng ở giữa và chúc bình an cho họ mà họ lại kinh hồn bạt vía,
tưởng là thấy ma và ngờ vực. Chúa cho họ rờ vào Ngài, họ thấy Ngài vẫn có xương
thịt và Ngài còn ăn khúc cá nướng họ đưa cho, lúc đó họ mới thấy mình không hề
mộng du và tin là Thầy mình đã sống lại thật (Lc 24:36-43). Thân xác phục sinh
khác thật và lạ thật đấy, giống như xưa mà lại không như xưa. Thảo nào chẳng ai
nhận ra Ngài là Đức Kitô Phục Sinh!
Và rồi bất kỳ ai gặp gỡ Đức Kitô thì đều
biến đổi từ trong ra ngoài, biến đổi hoàn toàn, biến đổi thực sự chứ không “có
vẻ”. Thấy ai biến đổi thì biết chắc người đó gặp được Đức Kitô. Biến đổi ở đây
phải hiểu theo nghĩa tích cực, khiêm nhường và can đảm làm chứng về Chúa, chứ
không “tỏ vẻ biến đổi” để được người khác khen ngợi. Cuộc đời các thánh đã cho
thấy điều đó, họ biến đổi mau chóng và lạ lùng đến nỗi bị người khác nghi ngờ.
Thế nhưng sự thật vẫn là sự thật, chân lý mãi là chân lý. Không thật thì không
bao giờ có thể giả vờ hoặc ra vẻ như thật được!
Tông đồ Phêrô, người được Thầy Giêsu tín cẩn
trao trọng trách làm Giáo hoàng tiên khởi, và đã từng nói mạnh là dám liều chết
với Thầy, nhưng rồi chính con người ấy đã chạy trốn vì khiếp nhược khi Thầy bị
bắt, đã chối bỏ Thầy vì nhát đảm, thế nhưng sau khi ông đã gặp được Đức Kitô
Phục Sinh thì ông khác hẳn, không còn nhát đảm như trước. Và rồi một hôm, ông
Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một (không còn Giu-đa Ít-ca-ri-ốt), và lớn tiếng
nói với họ: “Thưa anh em, miền Giu-đê và
tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và
lắng nghe những lời tôi nói đây” (Cv 2:14).
Ông Phêrô dõng dạc và thao thao bất tuyệt: “Thưa đồng bào Ít-ra-en, xin nghe những lời
sau đây. Đức Giêsu Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em.
Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu,
điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch
Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn
tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người
mãi. Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa
trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con
mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy
vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị
Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con
được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” (Cv 2:22-28).
Một Phêrô hôm nay hoàn toàn biến đổi chứ
không còn là một Phêrô hôm qua. Một nhân chứng sống động, một nhân chứng thật.
Khi đã biết đúng cái gì là thật thì người ta không còn sợ bất cứ thứ gì khác,
kể cả cái chết. Ông Phêrô nói tiếp với giọng quả quyết: “Thưa anh em, xin được phép mạnh
dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được mai táng,
và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và
biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên
ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức
Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không
phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên
Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa,
để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy, đang nghe” (Cv 2:29-33).
Thiên Chúa rất vui khi chúng ta hoàn toàn
tâm phục khẩu phục Ngài, nói theo ngôn ngữ thời nay là “triệt buộc”. Nghe chừng
miễn cưỡng nhưng không phải vậy, vì đó là cách “triệt buộc” của tình yêu, của
Lòng Chúa Thương Xót. Ngài làm vậy để chúng ta hoàn toàn tín thác nơi Ngài và
chúng ta được lợi ích là hưởng nhờ Lòng Thương Xót khôn lường của Ngài. Lúc đó,
chúng ta sẽ vui mừng thân thưa: “Lạy Chúa
Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài, con đang ẩn náu. Con thưa cùng Chúa: Ngài
là Chúa con thờ, ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?” (Tv 15:1-2).
Tại sao? Vì chúng ta biết chắc chỉ có Thiên Chúa
mới thực sự là cứu cánh và là cùng đích: “Lạy
Chúa, Ngài là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số
mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Do đó, chúng ta có thể can đảm thề
hứa: “Con chúc tụng Chúa hằng thương chỉ
dạy, ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con. Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được
Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân
hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong
cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con
biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài,
hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:7-11). Niềm tin tưởng tuyệt vời quá, niềm
tín thác đẹp biết bao!
Khi tin tưởng nhau, người ta có thể gặp gỡ
nhau. Tuy nhiên, phàm nhân thường có mức độ ưu tiên khác nhau, và thường thì ai
“ngon” hơn sẽ được “ưu tiên” hơn – “ngon” hơn nhờ “dễ nhìn” hơn người, giàu có
hơn người, “vai vế” hơn người,... Thế nhưng Thiên Chúa không hề như vậy, đừng
lấy cớ là “quen biết” Ngài nhiều (đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, cầu nguyện
nhiều, làm từ thiện nhiều, làm việc tông đồ nhiều,…) mà tưởng mình “ngon” hơn
người khác.
Thánh Phêrô nói thẳng: “Thiên Chúa là Đấng không vị nể
ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy nếu anh em gọi Người
là Cha, anh em hãy đem lòng kính sợ mà
sống cuộc đời lữ khách này” (1 Pr 1:17). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, rất
thẳng thắn, rất công bình.
Thánh Phêrô giải thích thêm: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những
của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù
phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ
tích, là Đức Kitô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa
được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã
cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt
niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1:18-21). Nghe có vẻ “dài dòng”
một chút, nhưng lại không thấy thừa chút nào.
Tin Đức Giêsu chịu chết làm rúng động dân
chúng, tin đó chưa đủ lắng xuống thì tin Ngài phục sinh lại tiếp tục khuấy động
lòng người. Chuyện lạ này nối tiếp chuyện lạ khác. Nhưng cũng ngày hôm ấy, có
hai người trong nhóm môn đệ đi đến làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười
một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Họ cũng
thấy thất vọng vì không biết tương lai ra sao, thôi thì về quê cắm câu cho chắc
ăn, chứ giờ thì chưa biết chuyện ngã ngũ thế nào.
Trình thuật Lc 24:13-35 cho biết rằng đang
lúc họ vừa đi đường vừa trò chuyện và bàn tán, chính Đức Giêsu tiến đến gần và
cùng đi với họ, nhưng họ không hề nhận ra Ngài. Ngài “giả nai” mà hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về
chuyện gì vậy?”. Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu vì thấy ông khách lạ này là
người vô tình nhất thế gian rồi, vì chuyện xảy ra rùm beng khắp nơi mà ông ta
chẳng hay biết gì sao?
Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả
lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ
tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa
nay”. Đức Giêsu vẫn tỏ vẻ “vô tư” nên hỏi họ: “Chuyện gì vậy?”. Họ kể lại vụ ông Giêsu Na-da-rét là một ngôn sứ
đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân, thế
mà các thượng tế và thủ lãnh đã kết án tử hình cho Ngài, rồi đóng đinh Ngài vào
thập giá. Họ bảo trước đây họ vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc
Ít-ra-en, thế nhưng những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Họ còn bảo
họ cũng thấy kinh ngạc khi mấy người đàn bà ra mộ hồi sáng sớm, nhưng không
thấy xác Ngài đâu cả, mấy bà còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo Ngài vẫn
sống. Họ kết luận: “Vài người trong nhóm
chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Ngài thì họ
không thấy”.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh
thật là chậm tin vào lời các ngôn
sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh
quang của Người sao?”. Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài
giải thích cho hai ông những gì liên quan Ngài trong tất cả Sách Thánh. Thế mà
hai ông vẫn chưa hết “ngu đột xuất” đấy!
Chúa Giêsu trách các ông “chậm tin” mà khiến
chúng ta phải giật mình. Thật vậy, cuộc sống đời và đạo cứ hằng ngày trôi qua,
chúng ta cứ sống theo hoàn cảnh mình riết thành quen, đến nỗi mọi thứ trở thành
như một phản xạ, và rồi hầu như cũng mất luôn cảm xúc. Cứ thế và cứ thế, thậm
chí việc làm dấu Thánh Giá cũng như một hành động của con robot được lập trình
sẵn. Và chúng ta vẫn cho rằng mình đang sống đức tin, nhưng rồi gặp chuyện gì
không xuôi xắn “như ý” mình thì chúng ta lại… ngại ngần, hóa ra chúng ta vẫn “chậm
tin” lắm!
Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm
như còn phải đi xa hơn nữa, nhưng họ nài ép Ngài ở lại với họ vì trời đã xế
chiều và ngày sắp tàn. Chúa Giêsu đồng ý. Khi ăn tối, Ngài cầm lấy bánh, dâng
lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra vì thấy hành động này
quen lắm, mới vài ngày thôi mà. Thế là họ nhận ra Thầy Giêsu, nhưng rồi Ngài
lại biến mất. Họ gãi đầu gãi tai và bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta,
lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.
Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại
Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người
này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi,
và đã hiện ra với ông Si-môn”. Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra
dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Ngài bẻ bánh. Thế là mọi vấn
đề được giải tỏa, không thèm về quê nữa!
Chữ “gặp gỡ” của Việt ngữ hay lắm: GẶP để GỠ
chuyện gì hoặc việc gì đó. GẶP thì mới GỠ được, KHÔNG GẶP thì KHÔNG GỠ được.
Những người được gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, dù là nam hay nữ, họ đều biến đổi
hoàn toàn, thay đổi cả con người từ trong ra ngoài. Họ được “gặp” Đức Kitô Phục
Sinh và được Ngài “gỡ” mọi khúc mắc của con người cũ để trở nên con người mới
hoàn toàn. Ai cũng khác hẳn!
Lạy Thiên
Chúa giàu lòng thương xót, xin cho chúng con nhận thấy Chúa trong bất kỳ ai mà chúng con gặp, nhất
là nơi những người hèn mọn, và xin cho mọi người gặp chúng con cũng nhận thấy
Chúa nơi chúng con. Xin cho chúng con biết cầm lấy tấm-bánh-cuộc-đời-mình rồi
tạ ơn Chúa, bẻ ra, trao cho mọi người, và can đảm làm nhân chứng về Đức Kitô
Phục Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Thiên Chúa cứu
độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment