Thế gian có nhiều loại “cuộc,” nhưng có lẽ
đặc biệt nhất là cuộc đời, với đủ thứ nhiêu khê.
Cuộc đời cũng là cuộc sống, là sự sống, nhưng không là Nguồn Sống. Mỗi người có hai sự sống: Sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Sự sống tâm linh quan trọng vì đó là sự sống của linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Chúa Giêsu xác định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Đúng như Thánh Vịnh gia đã phân tích: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy Sinh Khí lại, chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” (Tv 104:29-30)
B. Brech nói: “Điều đáng sợ không phải là chết, mà là sống rỗng tuếch.” Maxwell Winston
Stone nói: “Đừng nghĩ đến cái chết về thể
xác mà hãy trả lời câu hỏi: Bạn đã hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình chưa?
Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành trình sang thế giới bên kia dường
như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng theo nghĩa lạc quan, có một điều mới
lạ sắp đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa.”
Thật vậy, “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài,” (Nkm
9:6) nguyên tổ Ađam là người đầu tiên được đón nhận sự sống: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn
ra con người, thổi Sinh Khí vào lỗ
mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Được sinh ra làm người là
hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí có người sống đời thực vật, chứ
chúng ta không có quyền đòi hỏi hoặc chọn lựa: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.”
(1 Sm 2:6)
Sự sống rất cần, vì thế mà mọi người đều có
trách nhiệm bảo vệ sự sống. Sự sống liên quan không khí. Không khí là dưỡng
khí, là ôxy để chúng ta hít thở. Thiếu không khí vài phút là mọi vật chết hết.
Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử
dụng liên tục mà vẫn coi thường, vô ơn bạc nghĩa. Làm ô nhiễm môi trường là hủy
hoại môi sinh, tiêu diệt sự sống, tự giết chính mình!
Thuở xưa, Thiên Chúa nói với ngôn sứ Êdêkien:
“Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng
rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt
cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel.
Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và
đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta!” (Ed 37:12-13) Được ra khỏi huyệt
mộ là hết phải chết, là được sống. Phúc lớn lắm!
Thiên Chúa nói như một lời giải thích: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.
Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận
biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.” (Ed 37:14) Chúng ta được
Thiên Chúa “thổi hơi” để ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta sống. Và còn hơn là
sống, vì chúng ta được sống dồi dào,
(Ga 10:10) đúng như Chúa Giêsu đã hứa. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta
làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài không hề sai lời và rất thẳng thắn.
Tuyệt vời là thế đấy!
Ở trong bóng tối là CHẾT, ở trong ánh sáng là
SỐNG. Chúng ta chết vì chúng ta ở trong bóng tối – bóng tối tội lỗi. Vì thế,
chúng ta luôn phải khẩn cầu: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy
Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha
thiết nguyện cầu.” (Tv 130:1-2) Đó là lời cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như
tiếng còi vang lên từ xe cứu thương.
Và đó lại chính là hồng ân nữa: Chúng ta biết
đánh moóc SOS nên được sống, nhờ Thiên Chúa đến kịp. Vâng, ước gì mỗi khi gặp
hoạn nạn, chúng ta luôn biết van xin: “Ôi
lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn
rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.” (Tv 130:3-4) Nhưng muốn
vậy cũng không dễ, nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời
Chúa.” (Tv 130:5) Muốn sống, chúng ta phải tâm niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong
đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa. Chính Ngài sẽ cứu khỏi tội khiên muôn vàn.”
(Tv 130:6-8)
Chuyện sống – chết liên quan vấn đề xác – hồn.
Cụ thể là thân xác. Nhưng cũng nên phân biệt “xác thịt” (nhục thể, cụ thể) và
“tính xác thịt” (trừu tượng). Đôi khi “tính xác thịt” còn nguy hiểm hơn “xác
thịt.” Có lẽ vì thế mà Giáo hội “đề nghị” lời cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ 5
Mùa Thương: “Xin cho con biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa.” Chính
Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.”
(Mt 26:41; Mc 14:38)
Nói như vậy, chắc hẳn có thể có người muốn
“nổi loạn” và muốn “kiện” Chúa, vì Ngài đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý
nói là Chúa đã “cài đặt” mặc định (default) như vậy rồi, y như máy vi tính đã
“đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó cũng trở về “mặc
định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Nhưng không phải như vậy. Tại
sao? Thứ nhất, đó là mầu nhiệm,
chúng ta không đủ trình độ để hiểu. Thứ nhì, đó là Thiên Chúa không bao giờ tạo dựng điều xấu, vì
Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT chứ KHÔNG CÓ ĐIỀU XẤU.
Thánh Phaolô nói: “Những ai bị tính xác thịt
chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.” (Rm 8:8) Thật may cho chúng ta
vì chúng ta được làm “con cái Thiên Chúa,” như Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà
được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai
không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Hơn
cả tuyệt vời!
Về chuyện sống – chết, Thánh Phaolô giải
thích và xác định: “Nhưng nếu Đức Kitô ở
trong anh em thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng
ban cho anh em được sống, vì anh em
đã được trở nên công chính. Lại nữa,
nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Đấng đã làm cho
Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của
anh em được sự sống mới.” (Rm
8:10-11)
Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.”
(1 Sm 2:6) Và đúng là như vậy, vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm,”
(Đn 14:5) chính “Chúa Cha đã ban cho Người [Đức Kitô] quyền trên mọi phàm nhân”
(Ga 17:12) và “trên mọi chi tộc.” (Kh 13:7)
Trình thuật Ga 11:1-45 là một chuyện-cổ-tích-có-thật
kể rằng: Một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania, em trai của hai
chị em cô Mácta và Maria (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân
Chúa Giêsu). Anh Ladarô bị đau nặng và… tắt thở.
Khi biết em trai bệnh nặng, hai chị em gái
cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa
Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Chúng ta thấy rõ ràng Ladarô
là “người mà Chúa Giêsu thương mến,” thế nhưng Ngài vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là
dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được
tôn vinh.” Chúa Giêsu không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất chính
xác và đầy đủ.
Chúa Giêsu quý cả ba chị em Mácta, Maria và
Ladarô, nên Ngài đã lưu lại thêm hai ngày tại nơi đó. Sau đó, Ngài cùng các môn
đệ trở lại Giuđê. Các môn đệ thấy người Do Thái mới tìm cách ném đá Thầy, nên
muốn can ngăn. Nhưng Ngài bảo: “Ai đi ban
ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp
ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!”
[Có lẽ vì “người Do Thái tìm cách ném đá Chúa
Giêsu” nên ngày xưa, Chúa Nhật V Mùa Chay được các Kitô hữu “thân thương” gọi
là “lễ ném đá.” Vì thế, các ảnh tượng trong nhà thờ đều được “che kín” bằng vải
tím.]
Ngài bảo họ: “Ladarô, bạn của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” Các môn đệ
nói: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc
được, anh ấy sẽ khỏe lại.” Các môn đệ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà
Ngài dùng, họ tưởng Ngài nói về giấc ngủ bình thường. Thật ra Ngài muốn đề cập
SỰ CHẾT. Và rồi Ngài nói: “Ladarô đã
chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi,
nào chúng ta đến với anh ấy.” Ôi chao! Thấy người ta chết mà lại bảo là
“mừng.” Coi bộ “căng” dữ nghen! Nhưng đúng vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt
ở đó để người ta thêm tin khi thấy việc Ngài làm: Cải tử hoàn sinh cho Ladarô.
Hôm đó, các đệ tử đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng
chết với Sư Phụ.” Tốt lắm, ít ra cũng là thế! Dù CHƯA làm được điều mình muốn thì
ít ra cũng biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN.
Chắc hẳn Ladarô bệnh nặng lắm nên mới mau
chết. Vì dù đường không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi, người ta đã an táng
Ladarô được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số, nhưng
thời đó cuốc bộ suốt nên mất nhiều thời gian. Có nhiều người Do Thái đến chia
buồn với chị em Mácta và Maria.
Nghe tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón
Ngài, còn cô Maria thì cứ ngồi ở nhà, cứ bình thường, chả có gì quan trọng hóa.
Hay thật đấy! Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời
thật là rắc rối!
Mácta phải nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã
không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa,
Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Ngài bảo: “Em
chị sẽ sống lại!” Mácta thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống lại trong ngày
sau hết. Ngài nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống
và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải
chết.” Ngài hỏi Mácta có tin thế không, Mácta xác tín: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên
Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
Một lời tuyên xưng tuyệt vời quá đỗi!
Mácta vội đi nói nhỏ với Maria: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe
vậy, Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa vào làng, vẫn ở
chỗ Mácta đã ra đón. Những người Do Thái thấy Maria vội vã đứng dậy đi ra thì
cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em.
Khi đến gần Đức Giêsu, Maria liền phủ phục
dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy
ở đây, em con đã không chết.” Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy cô khóc,
những người Do Thái đi với cô cũng khóc, và chính Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Có
lẽ Maria khóc em trai dữ lắm. Rồi Ngài hỏi xác anh ấy ở đâu. Họ mời Ngài đến
xem, và Ngài liền khóc. Thấy thế,
người Do Thái bảo nhau: “Kìa xem! Ông ta
thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người trong họ thắc mắc là Chúa Giêsu
đã từng mở mắt cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ
nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức
trong lòng. Thương lắm chứ, thế nên Ngài đã “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi
Ngài đi tới mộ Ladarô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo lấy phiến đá ra.
Mácta bảo nặng mùi rồi, vì Ladarô đã an táng được bốn ngày. Chúa Giêsu nhắc lại
chuyện đức tin. Không ai có thể nói gì thêm.
Sau khi bảo người ta đem phiến đá đi, Chúa
Giêsu ngước mắt lên trời: “Lạy Cha, con
cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con,
nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Nói xong, Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô,
hãy ra khỏi mồ!” Thật lạ lùng, người chết lù lù đi ra trong khi vẫn còn
quấn vải liệm. Chắc hẳn ai cũng phải kinh ngạc. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi.” Hai bà chị cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ vui mừng không chỉ vì
em trai sống lại, mà chính là họ biết niềm tin của họ hoàn toàn đúng.
Thánh sử Gioan cho biết rằng trong số những
người Do Thái đến đám tang Ladarô hôm đó đều được chứng kiến việc Đức Giêsu
làm, và có nhiều kẻ đã tin vào Ngài. Họ thật diễm phúc vì đã tin!
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ lại một mối phúc
đặc biệt, ngoài Tám Mối Phúc, mà Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tôma sau khi
Ngài phục sinh: “Vì đã thấy Thầy, nên anh
tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29)
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, xin thêm đức tin cho chúng con, vì chúng con yếu đuối
lắm, không có Ngài thì chúng con không thể làm gì được. (Ga 15:5) Abba! Lạy
Cha! Xin giúp chúng con biết biến đổi chính sự yếu đuối của chúng con trở thành
sức mạnh nhờ Đức Kitô, để dù SỐNG hay CHẾT thì chúng con vẫn thuộc về Ngài mà
thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của
chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment