Tiền nhân xác định: “Giàu
hai con mắt, khó đôi bàn tay.” Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho
cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù
bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp,
lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù
cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.
Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã
thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau
cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt”
nữa.
Mắt cũng biết khóc, biết cười.Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai
cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì
thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi
người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và
làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội
với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn.” Qua hai
“cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn
cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ
“tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía.” Dòng nước mạnh sẽ “lướt”
dòng nước yếu thôi!
Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc
mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm
linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nênChúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Thật đáng sợ nếu chúng ta
bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”.
Khủng khiếp quá!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó,
không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên
đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con
trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” (1 Sm 16:1) Chúa không nói đến mắt,
nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc.”
Trình thuật 1 Sm 16:6-7,10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông
Sa-mu-en thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng
rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng
xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa
không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức
Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài
người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong,” cứ tưởng “con lợn
béo” thì “lòng nó ngon.” Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo
bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu.” Những
người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là
dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém.”
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông
Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác!
Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói
còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người
đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái
tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó
đó!” Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu.
Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng [*] hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23
(gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh
phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác
vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người
đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường
ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-4)
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u”chúng ta
cũng “chẳng sợ gì nguy khốn,” chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn
toàn“vững dạ an tâm.” Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa
xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương
Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những
năm dài triền miên.” (Tv 23:5-6) Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm
vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.
Thánh Phaolô nói: “Xưa anh
em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em
hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương
thiện, công chính và chân thật.” (Ep 5:8-9) Tức là phải cẩn trọng xem “điều
gì đẹp lòng Chúa,” chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng
tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Ep 5:10-11) Thánh Phaolô giải
thích: “Vì những việc chúng làm lén lút
thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng
làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép
rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào!
Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14)
Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay.
Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay.
Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất
cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan
ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi
nguyền rủa bóng tối.”
Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh
càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy Tròcùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ
hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm
tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu
trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng
phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy
công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công
trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm
việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga
9:3-5) Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc
Thiên Chúa được vinh danh.
Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới
phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống,
chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua
lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…) là những
người tội lỗi. Có người chỉ “để bụng,” nhưng có người lại dám “phán câu xanh
rờn” rằng: “Chúa phạt!” Lạy Chúa
tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như
nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!” Nhưng với
người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh
giá Chúa trao.” Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.” Chính
định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn
thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa.” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được
sai phái.”) Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu
có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới
đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn.” Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ
mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ
danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán,
kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn
thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những
người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho
anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần
nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” (Ga
9:15) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của
Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không
thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia
rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi
“cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17)
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy
được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ
anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không
biết tại sao, cha mẹ anh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói
thế vì sợ người Do-thái, những ngườisẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ
nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây,
chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” (Ga 9:24) Anh ta bảo rằng ông ấy có
phải là người tội lỗi hay không thìanh không biết, mà anh chỉ biết một điều là
trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã
làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe.
Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái
bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của
ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta
không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.”
Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể
cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là
người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi;
còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.
Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu
không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”
(Ga 9:30-33) Họ đối lại: “Trứng khôn hơn
vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?”
(Ga 9:34) Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ
có thế thôi!
Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi
anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức
Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính
Người đang nói với anh đây.” (Ga 9:37) Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui
nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin.”
(Ga 9:38) Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người
mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa
Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió
chiều nào ngả theo chiều nấy.”
Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39) Những người Pha-ri-sêu
đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế
ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ
mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp
như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có
tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn!”
(Ga 9:41) Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ
quốc tế luôn!
Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người
Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không
chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn,” không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ
thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như
mù.” Thật đáng sợ!
Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ,
và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu
đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân.” (Tv
91:8) Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv
119:18)
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi
được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ,
còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng
mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì
“lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta
cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa
Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn năng,xin mở mắt
đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng
con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ,
nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận
thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh
Tử Giêsu Kitô, ThiênChúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN
THU
[*] Chúa Nhật IV Mùa Chay mệnh
danh là Chúa Nhật Hồng hoặc Chúa Nhật Mừng (Lætare Sundæ),do chữ đầu tiên của
Ca Nhập Lễ là “Lætare” (Hãy mừng vui lên, hỡi Giêrusalem). Chúa Nhật này dùng
lễ phục hồng, được phép chưng hoa trên bàn thờ, và đệm đàn khi hát. Hoa Hồng
Vàng được làm phép hôm nay, và còn được gọi là Mediana, Ngày Giữa Mùa Chay,
Ngày Lễ Các Mẹ, Ngày Hoa Hồng, hoặc Chúa Nhật Tĩnh Dưỡng.
Có một Chúa Nhật Hồng khác, gọi
là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundæ), đó là Chúa Nhật III Mùa Vọng, do câu mở đầu
của Ca Nhập Lễ có câu “Gaudete in Domino semper” (Anh em hãy vui trong Chúa
luôn mãi). Chúa Nhật này cũng dùng lễ phục hồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment