ĐGH Leo XIII (2/3/1810 – 20/7/1903) sinh trưởng tại Ý quốc, tên thật là Vincenzo Gioacchino Raffaele Luigi Pecci, là vị giáo hoàng thứ 256 của Giáo hội Công giáo La Mã, cai quản Giáo hội từ 1878 tới 1903. Ngài là vị GH cao niên nhất – trị vì tới tuổi 93, và có triều đại GH dài thứ ba – sau vị tiền nhiệm là ĐGH Piô IX và ĐGH Gioan Phaolô II.
Ngài nổi tiếng về thông tuệ, về sự phát triển các giáo huấn xã hội qua Tông thư Rerum Novarum (Tân Sự – nói về đời sống của giới lao động nghèo) và nỗ lực xác định vị trí của Giáo hội với sự quan tâm tới cách suy nghĩ hiện đại. Ngài ảnh hưởng tới Thánh Mẫu Học (Mariology) của Giáo hội Công giáo và thúc đẩy tôn sùng Kinh Mân Côi và Áo Đức Bà (scapular). Ngài đã “lập kỷ lục” với 11 tông thư về Kinh Mân Côi, phê chuẩn 2 Áo Đức Bà và là vị GH đầu tiên hoàn toàn ủng hộ khái niệm về Đức Maria là Đấng Trung Gian (mediatrix).
Ngày 15-5-1891, ĐGH Leo XIII công bố Tông thư Rerum Novarum, một
tài liệu mà lịch sử coi là tông thư về xã hội hiện đại đầu tiên. Tài liệu này
giới thiệu các giáo huấn “cách mạng” đối với thời đó, trở nên nền tảng của xã
hội Công giáo hiện đại. Dùng nhiều tư tưởng xuất hiện trong Công đoàn Fribourg,
Rerum Novarum đã làm nổi bật nỗi khó khăn của giới công nhân, quyền của con người
đối với sự nghèo khổ của họ (một tranh luận ngược với xã hội chủ nghĩa), và vai
trò của nhà nước can thiệp để ngăn chặn nỗi khổ của giai cấp này bằng cách áp
dụng mức trung dung giữa tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tông
thư này còn bênh vực mức lương đủ sống để công nhân không gặp khó khăn, và
quyền tổ chức của công nhân, đồng thời thúc đẩy quyền của giáo hội được nói về
các vấn đề xã hội.
Hầu như ngay từ khi bắt đầu triều đại giáo hoàng năm 1878, ĐGH Leo
XIII đã có nhiều tuyên bố chính thức về lao động và điều xấu của thời đó, những
điều đó đã tiến báo về Rerum Novarum. Tông thư này nêu bật nhân phẩm và giá trị
của công việc, cả về ý nghĩa trừu tượng và thực tế. Ngài biện luận rằng gánh
nặng đè trên đôi vai công nhân phải được giảm bớt.
Điều gì thúc đẩy ĐGH Leo viết tông thư đầu tiên về xã hội? Lý do
thứ nhất là thần học và luân lý. Ngài tin rằng Giáo hội là cơ quan hướng dẫn
luân lý thì phải giữ vai trò quan yếu trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.
Thứ hai là từ viễn cảnh mục vụ, ngài sợ rằng Giáo hội sẽ mất giới công nhân bị
các phong trào xã hội chủ nghĩa thu hút nếu Giáo hội không lên tiếng. Cuối cùng
là từ chiều kích Giáo hội, ngài không muốn vị trí của Giáo hội trong xã hội bị
yếu thế hơn các sự kiện và phong trào nổi bật ở Âu châu hồi thế kỷ XIX.
Ngài “thổi” tinh thần mới vào triều đại giáo hoàng, biểu hiện
trong nhiều vị trí hòa giải với chính phủ, bằng cách quan tâm rằng Giáo hội
không đối nghịch với khoa học và bằng cách nhận thức cả nhu cầu mục vụ lẫn nhu
cầu xã hội của thời đại.
Ngài là con thứ 6 của một gia đình bình thường. Sau thời gian học
ở Viterbo và Rôma, ngài hoàn tất việc học tại Accademia dei Nobili
Ecclesiastici (Học viện Giáo sĩ Quý tộc) ở Rôma. Năm 1837, ngài thụ phong linh
mục và tham gia công việc ngoại giao của Tòa Thánh. Các bề trên mau chóng nhận
thấy năng lực của ngài: linh động, minh bạch và nghị lực – dù tướng tá ngài
mảnh khảnh. Thế nên tiến trình thăng cấp mau chóng: Ngài được bổ nhiệm làm Đại Diện
(tương đương thủ hiến) tại Benevento năm 1838 và năm 1841 được bổ nhiệm làm Đại
Diện quan trọng hơn tại Perugia, rồi được bổ nhiệm làm khâm sứ Tòa Thánh tại Bỉ
vào tháng 1-1843 và không lâu sau được thăng cấp tổng giám mục.
Việc lưu trú của ngài tại Bỉ, dù chỉ 3 năm, nhưng là thời gian
quan trọng trong cuộc đời của vị giáo hoàng tương lai này. Ngài phát hiện người
Công giáo trong chính phủ lập hiến hiện đại có thể hữu ích thế nào nhờ hệ thống
nghị viện từ sự tự do báo chí, nhưng đại sứ giáo hoàng tại Bỉ đã đình chỉ công
việc của GM trẻ Pecci. Ngài có sáng kiến và độc lập trong vài tình huống tinh
tế, nhưng lúc đó ngài bị phê phán dữ dội, vua Leopold I coi ngài là “không
ngoan ngoãn” như người đại diện tiền nhiệm và sớm triệu hồi ngài về.
Đầu năm 1846, ngài được bổ nhiệm làm giám mục GP Perugia, một giáo
phận nhỏ mà ngài “bị giữ chân” 32 năm, dù ngài được bổ nhiệm làm hồng y năm
1853. Ngài chịu đựng “sự khó hiểu” này và nỗ lực nhiều để được lòng Rôma, nhưng
vô ích: Ngài bị chỉ trích dữ dội là đối nghịch với Tòa Thánh đối với cuộc Cách
mạng Rôma năm 1848. Ngài muốn tránh những xung đột vô ích với chính phủ Ý sau
việc sáp nhập Umbria năm 1860 khiến Rôma nghi ngờ ngài khá bất công về sự cảm
thông tự do và thờ ơ với sự tôn trọng thế quyền.
Ngài nỗ lực tái tổ chức hệ thống giáo phận của mình, cải thiện tâm
linh và trí tuệ của các linh mục trong giáo phận. Ngài vẫn có nhiều thời gian
để đọc và suy nghĩ. Ngài bận rộn với việc canh tân triết học Kitô giáo và đặc
biệt nghiên cứu sách của thánh Thomas Aquino, học giả triết gia thế kỷ XIII, mà
ngài được tu sĩ Dòng Tên là giáo sư Giuseppe giới thiệu. Ngài cân nhắc vấn đề
quan hệ giữa Giáo hội với xã hội và càng tin rằng giáo quyền đã sai lầm khi có
thái độ sợ sệt, tiêu cực đối với tham vọng của thời đại. Kết quả của sự im lặng
chín muồi được người đương thời nhận ra trong thư mục vụ ngài viết năm
1877-1878, đã thu hút sự chú ý của cả những người ngoài biên giới Ý. Năm 1877,
ngài được chú ý và được bổ nhiệm làm Hồng Y Thị Thần, [*] tức là người quản lý
Giáo hội khi giáo hoàng qua đời.
Khi ĐGH Piô IX qua đời tháng 2-1878, tên Pecci thường được nhắc
đến trong số những người có thể được chọn làm giáo hoàng kế vị (principal
papabili). Ngài được hầu hết các hồng y không phải người Ý ủng hộ, họ ấn tượng
vì ngài có tính tự chủ và năng lực. Hồng y Pecci được bầu giáo hoàng ngày
20-2-1878, sau 3 lần bỏ phiếu. Ngài tuyên bố ngài chọn danh hiệu Leo XIII để
nhớ ĐGH Leo XII, người mà ngài luôn khâm phục về sự quan tâm giáo dục, về thái
độ hòa giải với thế quyền, và về sự mong ước liên kết với cá Kitô hữu đã tách
khỏi Giáo hội Công giáo Rôma. Tuổi tác và sức khỏe của vị tân giáo hoàng khiến
người ta nghĩ rằng triều đại giáo hoàng của ngài sẽ ngắn. Thế nhưng ngài đã cai
quản Giáo hội suốt phần tư thế kỷ.
Triều đại giáo hoàng của ĐGH Piô IX, vị tiền nhiệm của ĐGH Leo
XIII, đã dài và gây tranh luận. Ngay sau khi bắt đầu triều đại giáo hoàng, ĐGH
Piô IX đã mạnh mẽ và cương quyết, cả về việc cai quản Giáo hội lẫn việc đối
nghịch với chính phủ Ý vì đã sáp nhập Tòa Thánh. Dù triều đại giáo hoàng của
ĐGH Leo XIII có tinh thần mới, vị tân giáo hoàng vẫn “cứng đầu” như vị tiền
nhiệm về luật tối cao của giáo hoàng và vẫn coi truyền thống Kitô giáo là lý
tưởng. Ngài phản ứng mạnh như ĐGH Piô IX để chống lại Hội Tam Điểm
(Freemasonry, một hội bí mật mà các giáo hoàng đều coi là đối nghịch với Kitô
giáo) và chủ nghĩa tự do thế tục. Khi cai quản Giáo hội, ngài tiếp tục nêu bật
sự tập trung quyền vào giáo hoàng hơn là nhà nước và tái củng cố quyền của sứ
thần Tòa Thánh. Ngoài ra, ĐGH Leo XIII còn theo ĐGH Piô IX trong việc khuyến
khích lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ngài đổi mới cách kết án
chủ nghĩa duy lý (rationalism – thuyết cho rằng lý lẽ là nguồn đầu tiên của
kiến thức và của chân lý tâm linh) và theo đuổi việc tái thành lập triết học
của Thánh TS Thomas Aquino. Năm 1899, ngài kết án phong trào thân Mỹ
(Americanism), một phong trào mập mờ đối với việc hòa giải văn hóa Công giáo và
văn hóa Mỹ.
Tuy nhiên, nói cách khác, chắc chắn rằng triều đại giáo hoàng của
Đức Leo XIII nổi bật với tinh thần mới. Khi quan hệ với chính phủ, ĐGH Leo XIII
đã tỏ ra rất quan tâm ngoại giao. Ngài đạt được nhiều thành tựu không thể phủ
nhận nhờ ngoại giao, dù khả năng của ngài hạn chế về lĩnh vực này. Dù ngài
thích chính trị, nhưng sự vĩ đại thật của ĐGH Leo XIII là ngài không làm chính
trị. Ngài cũng đồng cảm với tiến bộ khoa học và nhu cầu bày tỏ công khai của
Giáo hội Công giáo đối với các tiến bộ như vậy, ngài vẫn là mục tử quan tâm sự
sống vĩnh hằng của Giáo hội và rao truyền sứ điệp đó tới khắp thế giới.
Mối quan tâm đổi mới cách đối thoại giữa Giáo hội và thế giới được
thể hiện trong nhiều tông thư của ngài đưa ra những hướng dẫn cho người Công
giáo khắp thế giới. Năm 1893, tông thư Providentissimus Deus (Thiên Chúa Quan
phòng), nay đã lỗi thời nhưng là công việc tiên phong, vạch định khá rộng các
quy luật mà người Công giáo nên hiểu về Kinh Thánh. Trong vài huấn thị, ngài
khuyên rằng Giáo hội và nhà nước sống chung hòa bình trong khung của xã hội
hiện đại. Tông thư Rerum Novarum cho thấy rằng giáo hoàng đã nhận thức vấn đề
của giới lao động. Ngài cố gắng ủng hộ cách tổ chức của giáo dân và quan tâm
cách đối thoại mới với người ngoài Công giáo, như được thể hiện trong cách quan
tâm mà ngài cố gắng tạo sự liên kết giữa Anh giáo và Công giáo Rôma, trong cách
tôn trọng truyền thống của Giáo hội Đông phương.
Trong những năm cuối triều đại giáo hoàng của ĐGH Leo XIII, cho
đến khi ngài trút hơi thở cuối cùng, vẫn có “sự cứng nhắc” trong chính sách của
Giáo hội và thái độ dè dặt đối với sự dân chủ Kitô giáo. Do đó, ngài tiếp tục
giành được uy tín cho giáo hoàng, như đã thấy càng ngày càng có nhiều nước
thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, ngay cả các nước không theo Kitô
giáo. Ngài là người có biệt tài thông minh, khí chất mạnh mẽ, nhận thức sâu sắc
về chính mình, và sáng suốt khi quan hệ công chúng. Dù triều đại giáo hoàng của
ngài không đem lại ngay nhiều sự thay đổi về mối quan hệ giữa Giáo hội Công
giáo với xã hội, nhưng đã mở đầu nhiều thái độ mới và chín muồi trong các thập
niên sau.
Một lý do thôi thúc ĐGH Leo XIII viết Rerum Novarum là thời đó đã
giao giới lao động nghèo cho những nhà tuyển dụng vô nhân đạo và những đối thủ
tham lam. (a. 6) Ngài thấy giới lao động nghèo không được giúp đỡ (a.66) và
không được bảo vệ để chống lại bất công và bạo lực. (a. 32) Ngài cảm thông với
những người nghèo, những người có “trái tim chán nản.” (a. 37)
Có một xu hướng mạnh dưới chủ nghĩa tư bản là phân xử người nghèo
một cách khắc nghiệt. ĐGH Leo XIII không đồng ý cách đó. Ngài cảm thấy đa số
giới lao động sống trong điều kiện khốn khổ. (a. 5) Người nghèo phải lao động
để họ có thể thoát nghèo và để có phương tiện cần thiết để sống, (a. 9) và đa
số giới lao động nghèo muốn có diều kiện an toàn hơn khi làm việc cực nhọc,
không bất công đối với ai. (a. 55) Tuy nhiên, ngài biết rằng giới lao động
nghèo ghen với người giàu, (a. 7) và ngài nghĩ rằng đầu óc của giới lao động
nghèo bị kích thích và luôn sẵn sàng nổi loạn. (a. 66)
Ngài cẩn thận chỉ ra rằng người nghèo bình đẳng về dân quyền như
người giàu, (a. 49) và công việc của họ là nguồn tài sản quốc gia. (a. 51) Khi
đề cập các vấn đề này, ngài thách thức vị trí của những người khinh thường
người nghèo, coi người nghèo là gánh nặng của xã hội. Thậm chí còn quan trọng
hơn là ngài thách thức vị trí của những người dùng tôn giáo để ủng hộ sự chèn
ép người nghèo. ĐGH Leo XIII là giáo hoàng của người nghèo, như Thiên Chúa
nghiêng lòng về phía người nghèo. (a. 37) Tuy nhiên, ngài ủng hộ người nghèo về
thái độ và hành động giống như Chúa.
Ngài xác nhận, giới lao động nghèo nên được giải phóng khỏi sự độc
ác của những người tham lam. (a. 59) Những người tìm cách giúp đỡ người nghèo
có thể hành động thao 3 cách: Hợp tác giúp đỡ bằng vật chất, hợp tác với các tổ
chức cá nhân để giúp đỡ công nhân, và hợp tác với các tổ chức để chăm sóc những
người phải lệ thuộc. (a. 68)
Nói về giới lao động nghèo, ĐGH Leo XIII nói nhiều đến mối quan
tâm của ngài về trật tự xã hội. Ngài muốn người nghèo hiểu rằng những người
cùng đinh trong xã hội không được coi ngang hàng với người cao nhất (a. 26) và
sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn. (a. 37) Chịu khổ và chịu đựng đó là con
người, (a. 27) thậm chí đau khổ thể hiện trong sự nghèo nàn, và dù sao, điều
được tính từ viễn cảnh của tính vĩnh hằng không là mức độ chúng ta có mà là
cách dùng những gì chúng ta có. (a. 33) Người nghèo biết rằng không được làm
tổn hại tài sản, con người hoặc chủ nhân, (a. 30) và không được cướp tài sản
của người khác (a. 55) vì quyền tư hữu phải được bảo vệ. (a. 23)
Sứ điệp gởi người nghèo vế điểm này có vẻ nhắm tới việc an ủi
người nghèo, khuyến khích họ chấp nhận vị thế của mình trong xã hội mà không
“cay cú” (rancor) và không làm hại người khác. ĐGH Leo XIII còn quan tâm về sự
hài hòa xã hội, ngài muốn giúp đỡ người nghèo trong việc duy trì trật tự tốt.
Nhưng có điều khác khiến ngài quan tâm nhất: Tài sản của người nghèo. Ngài nói
với họ rằng họ nên chấp nhận những gì mình có như nhà cửa, quần áo, an ninh, và
sống mà không thấy khổ sở. (a. 51) Ngài nói rõ rằng họ đừng cam chịu bị đối xử
bất công như thể là điều tất nhiên không thể tránh, và họ phải vùng lên giành
quyền lợi ngay khi họ duy trì trật tự xã hội tốt. Hãy bảo vệ quyền lợi của
mình, nhưng hãy tránh bạo lực và đừng bao giờ nổi loạn; (a. 30) đòi hỏi của bạn
phải hợp lý; (a. 37) hãy đưa ra yêu cầu với lý do; (a. 82) hãy thành lập công
đoàn (a. 69) nhưng đừng đình công. (a. 56) Sứ điệp về việc duy trì trật tự tốt
phải rõ ràng và không được sai lầm, đó cũng là sứ điệp về việc vùng lên giành
quyền lợi. ĐGH Leo XIII muốn giới lao động bảo vệ quyền lợi của mình, đưa ra
yêu cầu, và các phương tiện chính để làm vậy là thành lập công đoàn. Khi cố
gắng đòi quyền lợi, giới lao động nên liên minh với chính phủ, ĐGH Leo XIII nói
rõ rằng giới lao động nên được chính phủ quan tâm đặc biệt. (a. 54)
Thành phần hoạt động xã hội trong chương trình của ĐGH Leo XIII về
việc đối xử với giới lao động phải phù hợp với thành phần luân lý. Ngài cảm
thấy luân lý Kitô giáo phải được tái lập (a. 82) về nhân phẩm đích thực trong
cách sống luân lý. (a. 37) Đối với công nhân, luân lý có trong khi hoàn tất
công việc, (a. 30) trong khi góp phần vào những điều tốt chung, (a. 50) trong
khi hài hòa làm việc với chủ nhân giàu có, (a. 28) và trong khi không cấu kết
với những người xấu. (a. 30) ĐGH Leo XIII kết hợp trách nhiệm của công nhân với
trách nhiệm Kitô giáo toàn cầu khi thể hiện tôn giáo và sống giản dị, ngài
tuyên bố rằng “nếu xã hội loài người có thể được chữa lành, chỉ có trở lại với
đời sống Kitô giáo và các huấn sẽ chữa lành.” (a. 41)
Tông thư Rerum Novarum cũng có sứ điệp dành cho những người giải
quyết với giới lao động. Ngay đầu tông thư, ĐGH Leo XIII tuyên bố rằng giới lao
động phải được quan tâm. (a. 5) Điều này khiến ngài đề xuất không can thiệp vào
chuyện của những người mà công nghiệp không là gánh nặng luân lý về tài sản của
công nhân. Đối với ĐGH Leo XIII, chủ nhân phải có luân lý rõ ràng: Không được
đối xử với công nhân như nô lệ; (a. 31) phải tôn trọng nhân phẩm của công nhân;
(a. 31) không dùng con người để hưởng lợi; (a. 31) không chèn ép người nghèo vì
tư lợi. (a. 32) Phương pháp đối với chủ nhân đòi hỏi cao về luân lý nhưng rất
thực tế: Người ta cần người nghèo nên phải làm việc hài hòa. (a. 28) Đối xử bất
công với công nhân là vô luân lý, đồng thời bất lợi cho việc làm chủ và quản
lý.
Chủ nhân không được bắt làm việc không thích hợp. (a. 31) Họ phải
công bằng với công nhân, (a. 32) và họ không được làm thiệt hại tiền bạc của
công nhân hoặc chỉ coi trọng tài sản của mình. (a. 32) ĐGH Leo XIII kết hợp
trách nhiệm của chủ nhân với việc cân nhắc mối quan tâm tôn giáo và tâm linh
của công nhân, (a. 31) và kiềm chế công nhân khỏi ảnh hưởng tham nhũng. (a. 31)
Kết quả của sự kết hợp này là sứ điệp về mối quan tâm đối với công nhân là một
con người hoàn toàn, một con người có những nhu cầu thể lý, tâm linh, tâm lý,
luân lý, và gia đình.
Vì chủ nhân có của cải, ĐGH Leo XIII có điều để nói với họ về tài
sản và vị trí của họ trong xã hội là những người giàu. Ngài cảnh báo họ về cạm
bẫy của sự giàu có, ngài chỉ ra rằng tài sản không làm người ta hết buồn và nó
là rào cản bước tới hạnh phúc vĩnh hằng. (a. 34) Trong tầm nhìn vĩnh hằng, vấn
đề không là mức độ chúng ta có mà là cách chúng ta sử dụng những gì chúng ta có,
(a. 33) và chúng ta sẽ phải tường trình với Chúa về tài sản của chúng ta. (a.
34) Những người giàu có tài sản là để vì sự hoàn thiện của họ và vì lợi ích của
người khác, (a. 36) và họ được khuyến khích để chia sẻ của cải khi họ thấy
người khác thiếu thốn: Khi nhu cầu đến cực độ, đòi hỏi công lý; nói cách khác, nhu
cầu thuộc về bác ái. (a. 36)
ĐGH Leo XIII cũng nói với những người giàu điều mà ngài đã nói với
giới lao động nghèo: Luân lý Kitô giáo phải được tái lập, (a. 82) vì nhân phẩm
đích thực ở trong cách sống luân lý. (a. 37) Luân lý đối với người giàu có
trong những điều kiện với “tinh thần kiêu ngạo” của họ (a. 37) và “chuyển tới
sự tử tế.” (a. 37) Họ phải quan tâm tới trách nhiệm của họ, (a. 82) nghĩa là họ
không được đàn áp công nhân bằng bất công hoặc vô nhân đạo. (a. 53)
ĐGH Leo XIII nói trong Rerum Novarum về nhiều vấn đề đặc biệt liên
quan điều kiện của công nhân.
Công nhân có quyền thành lập công đoàn, quyền này ngoài quyền của
chính phủ. (a. 72) SỰ kết hợp mà ĐGH Leo XIII hình dung ra có thể chỉ thuộc về
công nhân hoặc của công nhân và chủ nhân, (a. 69) ngài mơ về một xã hội hài hòa
mà các mức độ xã hội cùng hợp tác hơn là cạnh tranh. Tông thư này mạnh mẽ ủng
hộ công đoàn, nói rằng mức tăng của họ được mong muốn. (a. 69) Mục đích của
công đoàn là sự thuận lợi riêng của những điều được kết hợp đó, (a. 71) để công
nhân dùng công đoàn của họ tạo an toàn về thể lý, tâm hồn và tài sản. (a. 76) Cùng
với thế giới quan của ĐGH Leo XIII, tông thư này nói rằng mục đích chính của
công đoàn là sự hoàn thiện về luân lý và tôn giáo. (a. 77) Cách hướng dẫn và
cách tổ chức khôn ngoan là chủ yếu đối với thành công của công đoàn. (a. 76) Các
thành viên được tự do chấp nhận cách tổ chức và quy luật, nhưng họ nên nhớ rằng
tổ chức phải phù hợp với mục đích. (a. 76) Hoạt động đúng đắn của công đoàn
liên quan văn phòng, ngân quỹ, và sự quyết định, (a. 78) công đoàn nên tìm cách
bảo đảm rằng mỗi công nhân có đủ việc làm công nhân nghèo được giúp đỡ. (a. 79)
ĐGH Leo XIII rất muốn công nhân giành quyền lợi, nhưng ngài cũng
muốn có sự hài hòa và hòa bình trong xã hội, đình công là xấu và không được
phép, (a. 56) ngài đặt hy vọng vào khả năng của các chủ nhân và nhân viên để
phân định mọi thứ một cách thân thiện nhờ sự giúp đỡ của chính phủ và Giáo hội.
Mức lương phải có sự thỏa thuận của chủ nhân và nhân viên; họ phải
vượt qua ước muốn cá nhân của chủ nhân; và họ phải thỏa mãn quyền an toàn để hỗ
trợ cuộc sống. (a. 61-62) Mức lương không bao giờ thiếu sức hỗ trợ công nhân
tằn tiện và liêm khiết (a. 63): Công nhân phải nhận mức lương đủ để sống và hỗ
trợ vợ con. (a. 65) Nếu công nhân nhận mức lương ít hơn, chịu lép vế: Người đó
là nạn nhân của công lý. (a. 63) Công việc không được kéo dài làm nhụt tinh
thần hoặc cơ thể phải mệt mỏi. (a. 59) Các yếu tố cấu thành được liệt kê là:
Bản chất công việc; tình trạng thời gian và vị trí; tình trạng thể lý của công
nhân. (a. 59)
Công nhân nên “ngừng tay vào những lúc nhất định và nghỉ ngơi,”
(a. 59) và công nhân phải có “nhiều thời gian rảnh rỗi để hồi phục sau khi lao
tâm lao tứ với công việc mệt nhọc.” (a. 60) Viết về tuần làm việc 7 ngày, ĐGH
Leo XIII dùng trách nhiệm tôn giáo là vũ khí đấu tranh để có tuần làm việc 6
ngày, và ngài nhất quyết rằng nên có thời gian nghỉ ngơi kết hợp với tôn giáo.
(a. 58)
Phải quan tâm đặc biệt tới phụ nữ và trẻ em, không được đối xử bất
công với họ ở nơi làm việc, (a. 60) và phải tạo điều kiện an toàn sức khỏe cho
công nhân ở nơi làm việc, nhất là ở các nhà máy. (a. 64)
ĐGH Leo XIII nhấn mạnh đến quyền làm chủ tài sản. Quyền tư hữu
phải được duy trì nguyên trạng (a. 23) và phải được coi là điều thiêng liêng.
(a. 65) Tuy nhiên, là sai trái đối với quyền tư hữu bị hạn chế ở một số người,
và tài sản riêng phải được lan rộng trong nhiều người nhất. (a. 65) Cùng với
điều này, ĐGH Leo XIII tuyên bố rằng nên có “sự phân chia công bằng về tài sản,”
(a. 66) nói cách khác, nên có ít tài sản chỉ có trong tay người giàu và nên
giảm thiểu số người nghèo.
Mục đích là tạo hạnh phúc chung và riêng. (a. 48) Chính phủ bảo vệ
cộng đồng và các thành phần trong cộng đồng (a. 52), và chính phủ nên bảo vệ
công bằng mỗi người và mỗi tầng lớp công dân. (a. 49) Bảo vệ công bằng đối với
các công dân nghĩa là chính phủ nên cân nhắc cẩn trọng đối với những người yếu
thế và nghèo khổ, (a. 54) và sự quan tâm đặc biệt này nên kể cả giới lao động
nghèo. (a. 54)
Chính phủ nên tìm cách cải thiện tình trạng của người lao động (a.
48) vì một phần nhiệm vụ của chính phủ là bảo vệ hạnh phúc và lợi ích của người
lao động, (a. 49) và vì tư lợi của chính phủ để cải thiện tình trạng của người
lao động. (a. 51) Sự quan tâm của chính phủ đối với công nhân nên bao gồm sự
bảo vệ tinh thần của người lao động. (a. 57) Chính phủ nên tránh can thiệp về
các vấn đề lương bổng, giờ giấc, và điều kiện làm việc, (a. 64) vì các ấn đề
này thuộc lĩnh vực thỏa thuận của chủ nhân và công nhân. Chính phủ không có
quyền cấm công đoàn, (a. 72) nhưng có thể phản đối, ngăn chặn, và giải tán công
đoàn khi mục đích không trùng khớp với luân lý, công lý, hoặc lợi ích quốc gia.
(a. 72) Là người trông coi trật tự xã hội, chính phủ nên tránh để xảy ra đình
công, (a. 56) nhưng nên tìm cách loại bỏ những nguyên nhân gây đình công. (a.
56) Chính phủ cũng nên bảo vệ tài sản cá nhân: “Dân chúng phải được giữ trong ranh giới trách nhiệm luân lý của họ.”
(a. 55)
Chính phủ phải cho phép tự do hành động đối với các cá nhân và gia
đình. (a. 52) Chính phủ không thể loại bỏ tư sản nhưng có thể kiểm soát, mặc dù
nên tránh đánh thuế nặng. (a. 67) Quyền dân sự không nên tùy tiện đưa vào sự
riêng tư của các gia đình, nhưng chính phủ có thể và nên tạo sự giúp đỡ công
khai đối với các gia đình gặp nhiều khó khăn. (a. 21) Chính phủ có thể phục hồi
quyền trong các gia đình, nhưng chăm sóc con cái họ không là việc của chính phủ.
(a. 21) Công quyền nên can thiệp khi “có sự tổn thương hoặc mối đe dọa các điều
tốt chung hoặc lợi ích của các nhóm cá nhân, mà tổn thương này không thể sửa
đổi hoặc ngăn ngừa bằng cách khác.” (a. 52) Đặc biệt là quyền của luật pháp nên
được sử dụng nếu cuộc đình công hoặc bãi công đe dọa an ninh trật tự, nếu đời
sống gia đình bắt đầu tan rã, nếu các cơ hội thực hành tôn giáo không được cung
cấp cho công nhân, nếu điều kiện lao động đe dọa tình trạng luân lý, hoặc “nếu
giai cấp chủ nhân đàn áp giới lao động bằng bất công hoặc làm thoái hóa họ bằng
những điều kiện nguy hại tới nhân vị hoặc nhân phẩm con người.” (a. 53)
Nếu Giáo hội bị coi thường, sự phấn đấu của con người sẽ vô ích.
(a. 25) Những đóng góp của Giáo hội để giải quyết các vấn đề xã hội bao gồm:
a. Giáo hội trích các giáo huấn từ Phúc Âm sẽ giải quyết hoặc cải
thiện vấn đề. (a. 25)
b. Giáo hội điều chỉnh cuộc sống và luân lý của con người. (a. 25)
c. Giáo hội cải thiện điều kiện làm việc của công nhân qua các
giáo huấn (a. 25), vì Giáo hội nổi trội về lòng thương xót (a. 43) và các xã
hội tôn giáo quan tâm các dạng nghèo khổ của con người. (a. 44)
d. Giáo hội tìm cách đoàn kết các tầng lớp để bảo vệ lợi ích của
công nhân. (a. 25) Giáo hội có thể đưa người giàu và người nghèo xích lại với
nhau, (a. 29) và Giáo hội tìm cách nối kết 2 tầng lớp xã hội này thành tình
láng giềng và tình bằng hữu thân thiện nhất. (a. 33)
e. Giáo hội chỉ ra cách chữa lành và thực hành liệu pháp. (a. 40)
TRẦM THIÊN
THU (chuyển
ngữ từ NetPlaces.com và Shc.edu)
[*] Camerlengo (từ nguyên tiếng Ý): Hồng y Thị thần, giám chức quản lý tông tòa, thị tùng viên, hầu cận. Có ba giám chức ở Rôma mang tước hiệu này:
1. Hồng ty thị thần của Giáo hội Công giáo, phụ trách văn phòng quản lý thu nhập và tài sản của Toà Thánh, xác thực cái chết của Đức Giáo Hoàng, chỉ huy các công việc chuẩn bị và điều hành cơ mật viện để bầu vị Giáo Hoàng mới;
2. Hồng y thị thần của Hồng Y Đoàn, phụ trách tài sản và nguồn thu nhập của Hồng Y Đoàn, chủ sự thánh lễ cầu cho Hồng Y qua đời, ghi chép và lưu giữ mọi hồ sơ của Hồng Y Đoàn;
3. Giám chức thị thần của hàng giáo sĩ Rôma, do các kinh sĩ
và các linh mục chính xứ ở Rôma bầu chọn, để chủ tọa các hội nghị của họ và làm
trọng tài trong các vấn đề ưu tiên.
✽ Giáo Hoàng của Kinh Mân Côi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Comment